MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG NĂM 2018

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KIỂM SOÁT TÀI SẢN, THU NHẬP CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG NĂM 2018
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử, tồn tại ở mọi chế độ xã hội, với những biểu hiện và mức độ khác nhau. Đây là vấn đề vừa mang tính toàn cầu, vừa mang đặc thù riêng của mỗi quốc gia, tùy thuộc vào bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Thực tế cho thấy, ở những nước có nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo thì sự tha hóa quyền lực công dễ xảy ra và do đó tham nhũng càng phổ biến. Ngược lại, những quốc gia có nền kinh tế phát triển, xã hội văn minh, quản lý công khai, minh bạch thì tham nhũng ít xảy ra hơn. Tuy nhiên, dù tham nhũng tồn tại dưới hình thức và mức độ như thế nào thì nó cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa sự ổn định và phát triển của xã hội, sự tồn vong của chế độ. Vì thế, phòng chống tham nhũng luôn là nhiệm vụ chính trị cấp bách hàng đầu của các quốc gia.
Ở nước ta, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã kết thúc thành công, với nhiều quyết sách đúng đắn trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, xác định một bước đột phá trong nhiệm kỳ mới là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng đã đề ra nhiều nhóm giải pháp, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan chức năng. Trong các giải pháp đó, việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn được xem là giải pháp hữu hiệu, góp phần hoàn thiện thể chế phòng ngừa tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
1. Những quy định cơ bản của Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN) năm 2018 về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
Vấn đề kiểm soát thu nhập được nhắc tới từ Pháp lệnh Chống tham nhũng năm 1998 với việc quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản; Luật PCTN năm 2005 phát triển chế định kê khai tài sản thành chế định minh bạch tài sản, thu nhập. Đến Luật PCTN năm 2018 phát triển thêm một bước thành chế định kiểm soát tài sản, thu nhập, coi trọng việc kiểm soát tính xác thực trong việc kê khai tài sản, thu nhập.
Luật PCTN năm 2018 bao gồm 10 chương với 96 điều. Trong đó, vấn đề kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị được quy định tại Mục 6 Chương II gồm 25 điều, từ Điều 30 đến Điều 54, với các nội dung cơ bản sau:
1.1. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập
Điều 30 Luật PCTN năm 2018 đã quy định cụ thể về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người thuộc diện kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình.
Điểm mới rất quan trọng của Luật PCTN năm 2018 là hình thành các đầu mối kiểm soát tài sản, thu nhập. Trước kia, không xác định các đầu mối này mà chỉ quy định cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở đâu thì sẽ nộp bản kê khai ở cơ quan quản lý người đó.
Trước đây, khi phát sinh các căn cứ cần xác minh, thẩm tra tài sản, thu nhập mới hình thành các tổ thẩm tra và xác định thành phần chủ thể đi xác minh. Luật hiện hành quy định hẳn một cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập và chính cơ quan này sẽ tiến hành thẩm tra xác minh, từ đó hình thành một cơ chế có tính chất chuyên nghiệp hơn.
Các cơ quan này có những quyền hạn nhất định để bảo đảm thực hiện được việc kiểm soát tài sản, thu nhập[[1]]. Khi nhận bản kê khai, các cơ quan này có quyền đánh giá các mức độ khác nhau về tính trung thực và có quyền yêu cầu đối tượng kê khai cung cấp, bổ sung thông tin hoặc giải trình. Bên cạnh đó, cơ quan này có quyền yêu cầu các cơ quan khác thực hiện các biện pháp ngăn chặn khi thấy một cá nhân, tổ chức có dấu hiệu tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản, thu nhập. Mặt khác, cơ quan này cũng có quyền đề nghị thẩm định giá, giám định tài sản, thu nhập phục vụ việc xác minh.
1.2. Kê khai tài sản, thu nhập
Về nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập: Luật PCTN năm 2018 vẫn giữ nguyên tinh thần của Luật PCTN năm 2005, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật PCTN năm 2012 nhưng có điều chỉnh rõ ràng, cụ thể hơn. Theo đó, người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai tài sản, thu nhập và mọi biến động về tài sản, thu nhập của mình, của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên một cách trung thực.
Về người có nghĩa vụ kê khai tài sản: Điều 34 Luật PCTN năm 2018 đã quy định đối tượng có nghĩa vụ kê khai là cán bộ, công chức; người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Đồng thời, Luật cũng quy định người có nghĩa vụ kê khai lần đầu bao gồm cả sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.
Như vậy, Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai đến tất cả cán bộ, công chức, một số viên chức sự nghiệp và cả sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp với mục đích chủ yếu là để xác định được nguồn gốc của tài sản, thu nhập; tạo cơ sở để so sánh, đối chiếu tài sản, thu nhập của những người kê khai khi có sự biến động trong năm, nhằm phòng ngừa tham nhũng và phục vụ cho công tác cán bộ.
Về tài sản, thu nhập phải kê khai: Trên cơ sở kế thừa Luật PCTN năm 2005, Luật PCTN năm 2018 quy định chi tiết hơn về tài sản, thu nhập phải kê khai[[2]].
Ngoài phải kê khai các loại tài sản, thu nhập như quy định trước đây, như: Nhà, quyền sử dụng đất; kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá mà mỗi tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên; tài sản, tài khoản ở nước ngoài, Luật hiện hành yêu cầu phải kê khai thêm công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng. Đồng thời, phải kê khai cả tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Về phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập: Đây là một điểm mới cơ bản của Luật PCTN năm 2018. Để phù hợp với việc mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập và giảm đầu mối các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, Luật đã quy định các phương thức kê khai áp dụng cho từng đối tượng kê khai khác nhau, gồm: Kê khai lần đầu, kê khai bổ sung, kê khai hằng năm và kê khai phục vụ công tác cán bộ[[3]].
Việc kê khai lần đầu được áp dụng đối với người đang giữ chức vụ hoặc có vị trí công tác thuộc đối tượng có nghĩa vụ kê khai, nhằm hình thành đồng bộ cơ sở dữ liệu, thông tin về tài sản, thu nhập của họ kể từ thời điểm Luật có hiệu lực để phục vụ cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập.
Việc kê khai phục vụ công tác cán bộ áp dụng đối với cán bộ, công chức, một số viên chức hoặc người ở vị trí công tác khác khi được tiếp nhận, tuyển dụng vào làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khu vực nhà nước. Hình thức kê khai này được thực hiện trong quá trình hình thành hồ sơ quản lý cán bộ. Những năm công tác tiếp theo, họ không phải kê khai tài sản, thu nhập hằng năm nếu không có căn cứ phát sinh.
Kê khai hằng năm và kê khai bổ sung phục vụ cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập. Kê khai hằng năm chỉ áp dụng đối với những người giữ chức vụ từ Giám đốc Sở và tương đương trở lên; người làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác[[4]]. Kê khai bổ sung áp dụng đối với người có biến động tăng về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300 triệu đồng trở lên.
Hiện nay, đang thực hiện việc kê khai tài sản lần đầu và kê khai, công khai Bản kê tài sản, thu nhập lần đầu phải hoàn thành trước ngày 31/3/2021. Việc kê khai hàng năm, kê khai bổ sung của năm 2021 sẽ thực hiện vào cuối năm 2021 bảo đảm hoàn thành trước ngày 31/12/2021 theo đúng quy định của Luật PCTN. Trường hợp phải kê khai tài sản, thu nhập để phục vụ công tác cán bộ mà người đó chưa kê khai tài sản, thu nhập lần đầu theo quy định của Luật PCTN năm 2018 thì thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập lần đầu và sử dụng Bản kê khai lần đầu để phục vụ công tác cán bộ lần đó.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý, sử dụng người có nghĩa vụ kê khai bàn giao 01 bản kê khai tài sản, thu nhập lần đầu cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập theo quy định tại Khoản 3 Điều 38 của Luật PCTN, hoàn thành trước ngày 30/4/2021. 
Về công khai bản kê khai tài sản, thu nhập: Tại Điều 39 Luật PCTN năm 2018 quy định cụ thể về cách thức công khai các bản kê khai tài sản, thu nhập của các đối tượng có nghĩa vụ kê khai.
Trên cơ sở công khai, hằng năm cơ quan đơn vị xây dựng kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập do thanh tra hoặc đơn vị phụ trách tổ chức cán bộ thực hiện.
1.3. Xác minh tài sản, thu nhập
- Luật PCTN năm 2018 đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai. Tại Điều 41 đã quy định các căn cứ xác minh tài sản, thu nhập. So với quy định trước đây, Luật PCTN năm 2018 đã bổ sung một số căn cứ xác minh như khi có dấu hiệu rõ ràng về việc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực; xác minh theo kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập được lựa chọn ngẫu nhiên. Việc quy định xác minh theo kế hoạch là nhằm tăng cường ý thức tuân thủ trong kê khai và minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Đây là một hình thức rất hiệu quả để cảnh báo tất cả những người kê khai tài sản, là họ có thể trở thành đối tượng được xác minh bất kỳ lúc nào theo kế hoạch hàng năm.
Việc lựa chọn ngẫu nhiên để xác minh các bản kê khai tài sản sẽ được thực hiện bằng cách bốc thăm hoặc sử dụng phần mềm máy tính. Số người được lựa chọn để xác minh ngẫu nhiên phải đảm bảo tối thiểu 10% số người thuộc diện kê khai hàng năm tại mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong đó có ít nhất 01 người là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị [[5]].
Cùng với việc xác minh ngẫu nhiên, Chính phủ được giao thẩm quyền quy định chi tiết tiêu chí lựa chọn người có nghĩa vụ kê khai được xác minh và việc xây dựng, phê duyệt kế hoạch xác minh tài sản, thu nhập hằng năm[[6]]. Kế hoạch xác minh hàng năm đảm bảo thực hiện tối thiểu 20% số cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền kiểm soát của Cơ quan kiểm soát tài sản; riêng đối với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Tài chính phải bảo đảm tối thiểu bằng 10%[[7]].
Ngoài ra, Luật PCTN năm 2018 cũng quy định cụ thể về thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị xác minh tài sản, thu nhập tại Điều 42; nội dung xác minh tài sản, thu nhập tại Điều 43; trình tự xác minh tài sản, thu nhập tại Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 48, Điều 49, Điều 50.
Các cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập có quyền tự mình đi xác minh, có quyền yêu cầu các bên liên quan cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai để phục vụ việc xác minh tài sản, thu nhập[[8]]. Việc này nhằm hạn chế việc các bên liên quan lấy cớ bảo mật để né tránh cung cấp thông tin.
- Về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực: Việc xử lý người có nghĩa vụ kê khai đã kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực được Luật quy định bằng các hình thức như: Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì sẽ bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử; người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến; người đã được bầu, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ thì bị áp dụng một trong các hình thức kỷ luật cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; người có nghĩa vụ kê khai khác nếu kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị xử lý kỷ luật và tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị áp dụng hình thức xử lý từ cảnh cáo trở lên; nếu được quy hoạch vào chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch. Đồng thời, Luật cũng quy định trường hợp họ chủ động xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể được xem xét không kỷ luật[[9]].
1.4. Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập nhằm đảm bảo cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập hiệu quả, bao gồm thông tin về bản kê khai; kết luận xác minh tài sản, thu nhập và các dữ liệu khác có liên quan đến việc kiểm soát tài sản, thu nhập. Đây là quy định mới được bổ sung tại Luật PCTN năm 2018. Trách nhiệm xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập; bảo vệ, lưu trữ, khai thác, cung cấp thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập tại các Điều 52, 53 và 54 của Luật PCTN năm 2018.
2. Những hạn chế, bất cập của pháp luật PCTN về kiểm soát tài sản, thu nhập
Có thể nói Luật PCTN năm 2018 đã có nhiều quy định mới và có những biện pháp mạnh mẽ hơn để kiểm soát tham nhũng trong cả khu vực công và tư, mở rộng đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, tăng cường chế tài đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong PCTN. Tuy nhiên, pháp luật PCTN của nước ta vẫn còn những hạn chế, bất cập về vấn đề kiểm soát tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn, biểu hiện chủ yếu ở những nội dung liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập và cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng. Cụ thể như sau:
- Trong việc kiểm soát tính trung thực của kê khai tài sản.
Do thu nhập thực tế và tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức còn có khoảng cách khá lớn nên khó xác định tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập. Đối với hầu hết các nước trên thế giới, thu nhập đồng nghĩa với tiền lương; còn ở Việt Nam, tiền lương chỉ là một phần của thu nhập. Thực tế cho thấy, với nhiều người, lương hàng tháng chỉ là khoản thu nhập ổn định nhưng tối thiểu trong tổng thu nhập. Các công việc khác mang lại thu nhập, dù là trong khuôn khổ nhiệm vụ công tác cũng có thể là khoản thu nhập bổ sung (họp hành, hội thảo, hội nghị, dự án, đề án, giảng dạy, tham gia các hội đồng...). Mặt khác, còn có những khoản thu nhập chênh lệch nhau giữa các ngành nghề do chính sách, chế độ liên quan đến thâm niên, phụ cấp nghề nghiệp, trích lại từ các khoản thu thuế được sử dụng dưới hình thức thu nhập tăng thêm hoặc tiền thưởng vào các dịp lễ, Tết... Do vậy, việc kê khai tài sản vẫn dựa vào chủ yếu ở ý thức tự giác, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức khi kê khai.
- Trong việc kiểm soát loại tài sản, thu nhập phải kê khai.
Tài sản, thu nhập phải kê khai theo quy định tại Điều 35 của Luật PCTN là các tài sản, thu nhập đã hình thành và đang thực tế tồn tại, mà không đề cập đến các tài sản sẽ hình thành trong tương lai. Mặt khác, việc liệt kê các tài sản tại Điều 35 là vẫn chưa đủ bao quát hết nguồn tài sản, thu nhập có giá trị lớn của người có nghĩa vụ kê khai (ví dụ như thú nuôi có giá trị, cây cảnh, đồ mỹ nghệ, đồ thờ tự hoặc quyền tài sản gắn với quyền sở hữu trí tuệ...). Việc quy định đó sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót nguồn tài sản, thu nhập của đối tượng có nghĩa vụ kê khai.
- Trong việc theo dõi dấu vết tài sản và cơ chế để thu hồi các tài sản tham nhũng.
Mặc dù pháp luật thi hành án dân sự, pháp luật PCTN quy định tài sản bị tịch thu gồm tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng nhưng những hành vi tham nhũng trá hình như tội làm giàu bất chính, tội nhận quà biếu có giá trị lớn thì lại chưa được hình sự hóa. Cùng với đó, ở Việt Nam chưa kiểm soát được việc tiêu dùng và thanh toán bằng tiền mặt nên đã gây ra một số khó khăn trong thực tiễn khi phải chứng minh nguồn gốc của tài sản tham nhũng.
Hiện nay vẫn có tình trạng đứng tên hộ trong việc đăng ký tài sản, do đó nếu không biết rõ nguồn gốc tài sản thì rất khó kiểm soát được. Lỗ hổng trong vấn đề kiểm soát tài sản, thu nhập hiện nay làm cho công tác này vẫn mang tính hình thức là do chưa kiểm soát được tài sản, thu nhập của mọi chủ thể, mà chỉ kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức. Trước kia, luật quy định tài sản tham nhũng là tài sản của người tham nhũng, có nghĩa là khi mang tên người khác thì không thể can thiệp. Còn bây giờ, quan niệm tài sản tham nhũng là tài sản có nguồn gốc của tham nhũng nên có đủ cơ sở để xử lý kể cả tài sản đã mang tên người khác. Tuy nhiên, việc xác định nguồn gốc của tài sản đối với mọi chủ thể là rất khó.
Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định trực tiếp về thu hồi tài sản tham nhũng, mà chỉ quy định việc kiện dân sự để đòi lại tài sản, bồi thường thiệt hại…[[10]] Như vậy, trong các trường hợp tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; bị thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra; bị chiếm hữu, sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật, trong đó có những tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng, thì chủ sở hữu có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để đòi lại các tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp; đòi bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xâm phạm gây ra; yêu cầu hoàn trả tài sản do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước, khoản 4 Điều 187 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật”[[11]]. Khi có các hành vi tham nhũng xâm phạm tới quyền, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ.
Như vậy, căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, chúng ta có thể sử dụng biện pháp khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, ít có cơ quan, tổ chức, cá nhân nào khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng. Một trong những nguyên nhân là do quy định của pháp luật làm cơ sở cho việc khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa rõ ràng, thiếu hướng dẫn.
- Về công khai bản kê khai tài sản.
Một trong những kênh kiểm soát tài sản của cán bộ, công chức, viên chức  là từ phía xã hội, trong đó báo chí và người dân là lực lượng cơ bản. Trong thời gian qua, báo chí và công luận đã góp phần quan trọng trong việc phanh phui những hành vi thu lợi bất chính và giúp cơ quan có thẩm quyền kịp thời xử lý người vi phạm. Tuy nhiên, Luật hiện hành quy định việc công khai bản kê khai tài sản, thu nhập được thực hiện tại nơi làm việc thường xuyên của người có nghĩa vụ kê khai. Còn việc công khai rộng rãi bản kê khai tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn là khó thực hiện.
- Về các giải pháp đồng bộ để kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của những đối tượng có nghĩa vụ kê khai.
Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn ở nước ta được thể hiện ở các phương diện như: Kê khai, công khai bản kê khai, quản lý bản kê khai, xác minh tính trung thực của bản kê khai, xử lý việc kê khai không trung thực, cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập... Tuy nhiên, việc kiểm soát tài sản, thu nhập vẫn chưa thực sự hiệu quả, do thiếu các giải pháp đồng bộ về mặt thể chế, chính sách, pháp luật. Cần thiết phải có những giải pháp liên quan đến chính sách tiền lương; kiểm soát tài sản, thu nhập của tất cả các chủ thể trong xã hội; quy định phương thức thanh toán không dùng tiền mặt...
Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm, chưa hiệu quả, bị xem nhẹ hoặc thực hiện một cách chiếu lệ.
3. Một số kiến nghị, đề xuất
Nhằm nâng cao hiệu quả của việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trong thời gian tới, chúng ta cần thực hiện một số nội dung sau đây:
Kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập phải kê khai.
Tại khoản 1 Điều 33 Luật PCTN năm 2018 quy định người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập phải kê khai cả của vợ hoặc chồng, con chưa thành niên. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, bên cạnh các đối tượng trên thì người sống chung nhưng không đăng kết hôn, các thành viên khác trong gia đình có sống chung, những người có quan hệ thân tín đều là những người có khả năng thực hiện hành vi bao che, tẩu tán tài sản có được từ tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước. Vì vậy, tùy cấp bậc, vị trí công tác, cần quy định người có chức vụ, quyền hạn có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, biến động về tài sản của cả các đối tượng là: Vợ (chồng), người sống chung như vợ (chồng); bố, mẹ đẻ; bố, mẹ nuôi; bố, mẹ vợ (bố, mẹ chồng); anh, chị, em ruột; con đẻ, con nuôi trong trường hợp sống chung, sinh hoạt chung có phát sinh chi phí sinh hoạt chung hoặc cấp dưỡng, phụ thuộc nhau....
Sửa đổi, bổ sung các tài sản phải kê khai tại Điều 35 của Luật PCTN năm 2018 để không bỏ sót các đối tượng tài sản phải kê khai.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát tài sản, thu nhập.
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của pháp luật về PCTN; nâng cao nhận thức về công tác kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; xác định việc kê khai tài sản, thu nhập là nhiệm vụ thường xuyên hàng năm, là giải pháp quan trọng trong công tác đấu tranh PCTN ở nước ta.
Thứ hai, thực hiện phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, các khoản chi tiêu cần được kiểm soát thông qua hệ thống ngân hàng; tăng cường quản lý, kiểm soát thuế thu nhập cá nhân. Đây có thể coi là biện pháp cơ bản nhằm bảo đảm kiểm soát được thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn kể cả trong khu vực Nhà nước và khu vực tư. Do đó, cần xem xét quy định mọi khoản thanh toán có giá trị lớn của người có chức vụ, quyền hạn bắt buộc phải được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng, từng bước hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán là biện pháp quan trọng để kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn nói chung và góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm về tham nhũng.
Thứ ba, cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức; đảm bảo tiền lương là nguồn thu nhập chính, có khả năng trang trải cho cuộc sống của người được trả lương. Khi chính sách tiền lương hợp lý, cùng với sự kiểm soát chặt chẽ nguồn tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và có chế tài nghiêm khắc đối với các trường hợp sai phạm thì sẽ góp phần thực hiện Luật PCTN theo phương châm: "không dám tham nhũng", "không thể tham nhũng", "không muốn tham nhũng" và "không cần tham nhũng".
Thứ tư, khai thác tốt dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và các đối tượng khác có nghĩa vụ kê khai tài sản. Kết nối thông tin, dữ liệu giữa các cơ quan liên quan, hỗ trợ cho công tác kiểm soát tài sản, thu nhập (cơ quan thuế, ngân hàng, cơ quan công an, cơ quan quản lý đất đai...).
Có thể khẳng định rằng, tham nhũng là một vấn nạn của xã hội, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn nguy cơ gây ra các xung đột về lợi ích, các phản kháng trong xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo và đang là trở lực lớn đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước. Vì vậy, công tác phòng, chống tham nhũng không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội và mọi công dân. Việc hoàn thiện thể chế kiểm soát thu nhập, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn được xác định là một trong những công cụ quan trọng, là một trong những giải pháp phòng, chống tham nhũng hiệu quả, đã được pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều quốc gia ghi nhận./.
 
[1]Khoản 2 Điều 31 Luật PCTN năm 2018.
[2] Điều 35 Luật PCTN năm 2018.
[3] Điều 36 Luật PCTN năm 2018.
[4] Điều 10 Nghị định số 130/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
[5] Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
[6] Khoản 2 Điều 41 Luật PCTN năm 2018.
[7] Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP.
[8] Điểm b, khoản 2 Điều 31 Luật PCTN năm 2018.
[9] Điều 51 Luật PCTN năm 2018.
[10] Điều 166, 167, 168, 170 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[11] Khoản 4 Điều 187 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
 

Tác giả bài viết: Hương Giang