Chợ và vấn đề quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và gải pháp

Quá trình hình thành và phát triển chợ ở Việt Nam cũng gắn liền với truyền thống buôn bán của dân cư và có tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nước nhà. Vì thế, chợ đóng vai trò như một tấm gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán... của người dân. Bài Hội thảo này giới thiệu những nét chính về chợ và vai trò của chợ; Một số mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay; Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay.
1. Giới thiệu
Chợ  là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, tiêu thụ hàng hóa, nhằm giải quyết các nhu cầu trong đời sống hàng ngày của người dân. Chợ cùng với những hoạt động của mình đã gắn chặt với tâm thức của người dân Việt Nam. Bên cạnh “nhà”, “làng”, “nước”, chợ trở thành một phần không gian văn hoá theo suốt cuộc đời mỗi con người. Ngoài việc trao đổi, mua bán, chợ còn là nơi giao lưu tình cảm anh em, bạn bè, gia đình, chòm xóm. Có thể nói, chợ là tấm gương phản chiếu sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cư dân ở một vùng, khu vực nhất định. Khách phương xa, nếu muốn khám phá những nét thú vị, đặc sắc về một vùng đất và con người nơi ấy thì không đâu bằng nơi họp chợ. Câu nói cửa miệng“đem ra chợ bán, đi ra chợ mua” đã trở thành một nét văn hóa quen thuộc của người dân Việt Nam
Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống chợ nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều yếu kém như cơ sở vật chất nhìn chung còn nghèo nàn, lạc hậu, việc đầu tư xây dựng chợ mới chỉ do Nhà nước làm, chưa thực hiện xã hội hoá trong công tác đầu tư xây dựng chợ theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", nhiều chợ chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh, an toàn thực phẩm, văn minh thương mại. Công tác quản lý chợ còn nhiều hạn chế và yếu kém, đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều người chưa qua đào tạo và hạn chế về năng lực chuyên môn... Đặc biệt, trong bối cảnh chợ phải đối đầu cạnh tranh gay gắt với các kênh bán lẻ khác như siêu thị, cửa hàng và các đội quân bán hàng di động, nếu không theo kịp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, mô hình chợ sẽ bị thu hẹp dần. Để vực dậy hoạt động chợ, chúng ta cần thiết phải phát triển mạng lưới chợ theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt. Vì vậy, bài viêt này sẽ đề xuất các giải pháp nâng cao vấn đề quản lý chợ Việt Nam hiện nay.
2.  Chợ, phân loại chợ và vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.1. Khái niệm
        
Trên thực tế tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu mà có rất nhiều khái niệm khác  nhau về chợ:
-  Theo định nghĩa trong các từ điển tiếng Việt đang được lưu hành: "Chợ là nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày hoặc những buổi nhất định "Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng hoá,  thực  phẩm  hàng  ngày  theo  từng  buổi  hoặc  từng  phiên  nhất định  (chợ  phiên)...
-  Theo Thông tư số  15/TM-CSTTTN  ngày  16/10/1996  của  Bộ  Thương Mại hướng dẫn tổ chức và quản lý chợ "Chợ là mạng lưới thương nghiệp được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội".
-  Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính Phủ về phát triển và quản lý chợ "Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư".
(1) Phạm vi chợ: là khu vực được quy hoạch dành cho hoạt động chợ, bao gồm diện tích để bố trí các điểm kinh doanh, khu vực dịch vụ (như: bãi để xe, kho  hàng,  khu  ăn  uống,  vui  chơi  giải  trí  và  các  dịch  vụ  khác)  và  đường  bao quanh chợ.
(2) Chợ đầu mối: là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng hoá lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác. 
(3) Chợ kiên cố: là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng trên 10 năm.
(4) Chợ bán kiên cố: là chợ được xây dựng bảo đảm có thời gian sử dụng từ  5 đến 10 năm
(5) Điểm kinh doanh tại chợ: bao gồm quầy hàng, sạp hàng, ki-ốt, cửa hàng được bố trí cố định trong phạm vi chợ theo thiết kế xây dựng chợ, có diện tích quy chuẩn tối thiểu là 3m2/điểm
Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa, ta có thể rút ra kết luận: Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển mang tính  truyền  thống, được  tổ  chức  tại  một địa điểm  công  cộng,  tập trung đông người mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ với nhau, được hình thành do yêu cầu của sản xuất, lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động theo các chu kỳ thời gian nhất định.
2.2. Phân loại chợ trong mạng lưới chợ ở nước ta
Hiện nay ở nước ta tồn tại rất nhiều các loại chợ khác nhau, dựa theo những tiêu thức khác nhau ta có những cách phân loại sau:
- Theo địa giới hành chính: Có hai loại chợ tồn tại theo tiêu thức này là chợ đô thị và chợ nông thôn.
-  Theo tính chất mua bán: Dựa theo tiêu thức này, ta có thể phân chia thành hai loại là chợ bán buôn và bán lẻ.
- Theo đặc điểm mặt hàng kinh doanh: Có chợ tổng hợp và chợ chuyên doanh.
- Theo số lượng hộ kinh doanh, vị trí và mặt bằng của chợ:
Dựa theo cách phân loại trong Điều 3 Nghị định số 02/2003/NĐ-CP  của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ thì chợ được chia thành 3 loại: chợ loại 1, chợ loại 2 và chợ loại 3.
Chợ loại 1 là chợ phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
+ Là chợ có trên 400 điểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố, hiện đại theo quy hoạch;
+  Được đặt ở các vị trí trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của tỉnh, thành phố hoặc là chợ đầu mối của ngành hàng, của khu vực kinh tế và được tổ chức họp thường xuyên;
+ Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức đầy đủ các dịch vụ tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường, dịch vụ kiểm tra chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm và các dịch vụ khác.
Chợ loại 2 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
+  Là chợ có trên 200 diểm kinh doanh, được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc là bán kiên cố theo quy hoạch;
+  Được đặt ở trung tâm giao lưu kinh tế của khu vực và được tổ chức họp thường xuyên hay không thường xuyên;
+ Có mặt bằng phạm vi chợ phù hợp với quy mô hoạt động của chợ và tổ chức các dịch vụ tối thiểu tại chợ: trông giữ xe, bốc xếp hàng hoá, kho bảo quản hàng hoá, dịch vụ đo lường.
Chợ loại 3 là chợ thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
+  Là chợ có dưới 200 điểm kinh doanh hoặc các chợ chưa được đầu tư xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố;
+  Chủ  yếu  phục vụ  nhu cầu mua bán hàng  hóa của  nhân  dân  trong  xã, phường và địa bàn phụ cận.
- Theo tính chất và quy mô xây dựng: Theo tiêu chí này, chợ được chia thành chợ kiên cố, chợ bán kiên cố và chợ tạm:
2.3. Vai trò của chợ trong nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay
Trong những năm qua, mạng lưới chợ ở nước ta đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là từ thập niên 80 và những năm đầu của thập niên 90. Đây là giai đoạn mà mạng lưới siêu thị và trung tâm thương mại chưa hình thành và phát triển, chợ vẫn là nơi tiêu thụ hàng hóa chủ yếu của các doanh nghiệp sản xuất cũng như là nơi mua sắm chủ yếu của người dân. Tuy nhiên, hiện nay chợ vẫn giữ một vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
+ Về mặt kinh tế
Chợ là một bộ phận quan trọng trong cấu thành mạng lưới thương nghiệp xã hội :
Đối với vùng nông thôn: Chợ vừa là nơi tiêu thụ nông sản hàng hoá, tập trung thu gom các sản phẩm, hàng hoá phân tán, nhỏ lẻ để cung ứng cho các thị trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước, vừa là nơi cung ứng hàng công nghiệp tiêu dùng cho nông dân và một số loại vật tư cho sản xuất nông nghiệp ở nông thôn.
Ở khu vực thành thị: Chợ cũng là nơi cung cấp hàng hoá tiêu dùng, lương thực thực phẩm chủ yếu cho các khu vực dân cư. Tuy nhiên hiện nay đã xuất hiện khá nhiều hình thức thương mại cạnh tranh trực tiếp với chợ, vì thế bên cạnh việc mở rộng hay tăng thêm số lượng chợ chúng ta sẽ đầu tư nâng cấp chất lượng hoạt động của chợ và đầu tư nâng cấp chất lượng dịch vụ của chợ.
Hoạt động của các chợ làm tăng ý thức về kinh tế hàng hoá của người dân, rõ nét nhất là ở miền núi, vùng cao từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, miền núi. Trong các phiên chợ, các buổi chợ là cơ hội của người dân giao lưu trao đổi, mua bán, lưu thông hàng hoá của mình, cập nhật thông tin, ý thức xã hội, nó làm tăng khả năng phản ứng của người dân với thị trường, với thời thế và tự mình có thể ý thức được công việc làm ăn buôn bán của mình trong công cuộc đổi mới.
Chợ là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Mặc dù Nhà nước chưa có thể nâng cấp đủ hệ thống chợ ở nước ta, chưa đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, nhưng các chợ trong cả nước đã đem lại cho Ngân sách Nhà nước khoảng 300.000 triệu đồng mỗi năm (chưa kể các nguồn thu từ thuế trực tiếp).
Sự hình thành chợ kéo theo sự hình thành và phát triển các ngành nghề sản xuất. Đây chính là tiền đề hội tụ các dòng người từ mọi miền đất nước tập trung để làm ăn, buôn bán. Chính quá trình này làm xuất hiện các trung tâm thương mại và không ít số đó trở thành những đô thị sầm uất.
+ Về giải quyết việc làm
Chợ ở nước ta đã giải quyết được một số lượng lớn việc làm cho người lao động. Hiện nay trên toàn quốc có hơn 2,3 triệu người lao động buôn bán trong các chợ và số người tăng thêm có thể tới 10%/năm.
Nếu mỗi người trực tiếp buôn bán có thêm 1 đến 2 người giúp việc (phụ việc bán hàng, tổ chức nguồn hàng để đưa về chợ, đưa hàng tới các mối tiêu thụ theo yêu cầu của khách…) thì số người lao động có việc tại chợ sẽ gấp đôi, gấp ba lần số lượng người chỉ buôn bán ở chợ, và như thế chợ giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người lao động khi hoạt động.
+ Về việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
Có thể nói, chợ là một bộ mặt kinh tế - xã hội của một địa phương và là nơi phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của một vùng dân cư. Tính văn hoá ở chợ được thể hiện rõ nhất là ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Đối với người dân: Đồng bào đến chợ ngoài mục tiêu mua bán còn lấy chợ làm nơi giao tiếp, gặp gỡ, thăm hỏi người thân, trao đổi công việc, kể cả việc dựng vợ gả chồng cho con cái. Chợ còn là nơi hò hẹn của lứa đôi, vì vậy người dân miền núi thường gọi là đi "chơi chợ" thay cho từ đi chợ mua sắm như là người dưới xuôi thường gọi. Các phiên chợ này thường tồn tại từ rất lâu đời, và nó là những bản sắc văn hoá vô cùng đặc trưng của các dân tộc ở nước ta.
Đối với chính quyền: ở miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa chợ là địa điểm duy nhất hội tụ đông người. Tại chợ có đại diện của các lứa tuổi, tất cả các thôn bản và các dân tộc. Vì thế, đã từ lâu, Chính quyền địa phương đã biết lấy chợ là nơi phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi tuyên truyền cảnh giác và đấu tranh với những phần tử xuyên tạc đường lối của Đảng. Từ phong trào kế hoạch hoá gia đình đến kỹ thuật chăm sóc cây trồng vật nuôi, vệ sinh phòng dịch… đều có thể được phổ biến một cách hiệu quả ở đây. Chính vì lý do đó, chợ miền núi hay miền xuôi đều được bố trí ở trung tâm cụm, xã (nhất là miền núi). Trong mỗi chợ đều giành vị trí trung tâm làm công tác tuyên truyền.
Trên thực tế, một số chợ truyền thống có từ rất lâu đời đang trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch (như Chợ Tình Sa Pa, chợ Cầu Mây ở Nam Định…). Nếu được đầu tư thoả đáng cả về cở sở vật chất cũng như sự quan tâm quản lý của Nhà nước, đây sẽ là các địa danh hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước, và nó sẽ là tiềm năng về kinh tế du lịch quốc gia.
Hiện nay, khi mạng lưới siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bán lẻ đã hình thành và phát triển mạnh, mặc dù vẫn có tầm quan trọng trong sinh hoạt của người dân, nhưng không vì thế mà chợ mất đi vai trò của mình mà có thể nói chợ đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình và sự phát triển mạng lưới chợ chính là sự hỗ trợ cho sự hình thành và phát triển của các loại hình kinh doanh mới, đó là siêu thị và trung tâm thương mại.
3. Thực trang tổ chức quản lý chợ Việt Nam hiện nay
3.1. Một số mô hình tổ chức quản lý chợ hiện nay ở nước ta
3.1.1. Tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý
Theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 về phát triển và quản lý chợ: "Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp có thu, tự trang trải các chi phí hoạt động  thường  xuyên,  có  tư cách pháp  nhân,  có  con  dấu  riêng  và  có  tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của chợ và tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ theo quy định của pháp luật".Căn cứ vào tính chất, đặc điểm và quy mô của chợ, Uỷ Ban Nhân Dân các cấp có thẩm quyền quyết định lập và giao cho Ban quản lý chợ quản lý một hoặc một số chợ (liên chợ) trên địa bàn theo phân cấp quản lý.
Trường hợp lập Ban quản lý liên chợ thì ở từng chợ có thể lập Ban hay tổ điều hành chợ. Ban quản lý chợ có trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước và các hoạt động trong  phạm  vi  chợ  của  một  hoặc  một  số  chợ;  thực  hiện  ký  kết  hợp  đồng  với thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ; tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh trật tự và an toàn thực phẩm trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý Nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại.
         Hình 1: Sơ đồ tổ chức, quản lý chợ theo mô hình Ban quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay
3.1.2. Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp 
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một danh từ chung để chỉ các đơn  vị  kinh  doanh  thuộc  các  loại  hình  khác  nhau  như doanh  nghiệp  Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp tác xã, công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Doanh  nghiệp  kinh  doanh  khai  thác  và  quản  lý  chợ  là  một  doanh nghiệp được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh  chợ,  đăng  ký  kinh  doanh  và  hoạt  động  kinh  doanh  theo  quy  định  của pháp luật
Hình 2: Sơ đồ Tổ chức quản lý chợ theo mô hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
3.2. Thực trạng mô hình tổ chức quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những kết quả đã đạt được
Trong những năm qua sự tồn tại và phát triển của các chợ do Ban quản lý (BQL) thuộc đơn vị sự nghiệp có thu tổ chức, quản lý đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các BQL đã duy trì hoạt động của các chợ tương đối ổn định và mang lại những kết quả đáng kể như: tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước… từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước
3.2.2. Những hạn chế trong mô hình tổ chức quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, BQL chợ vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết trong thời gian tới. Điều này thể hiện ở một số khía cạnh sau:
-  Việc quản lý các tài sản Nhà nước trong phạm vi chợ còn lỏng lẻo, trách nhiệm chưa cao.
-  Công tác thu thuế, các loại phí, lệ phí trong chợ còn chậm chạp.
-  Chưa kiên quyết trong việc xử lý các vi phạm về Nội quy chợ. Trong cùng một chợ hiện tượng "vừa thừa vừa thiếu" diễn ra phổ biến. Một số quầy sạp trong chợ bị bỏ trống, trong khi đó diện tích xung quanh chợ, các tuyến đường lối đi vào chợ thì bị lấn chiếm kinh doanh.
- Việc tuyên truyền, phổ  biến,  hướng dẫn thực hiện  các  chính sách,  các quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước cho các thương nhân kinh doanh tại chợ của BQL còn chưa đầy đủ.
Thứ hai, mô hình quản lý chợ như hiện nay chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng, kinh doanh khai thác chợ. Nguồn vốn cho đầu tư, xây dựng các chợ mới đều lấy từ ngân sách nhà nước (NSNN) là chủ yếu.
Thứ ba, hàng năm Quận vẫn phải chi một khoản ngân sách lớn vào đầu tư, xây dựng, cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang chợ. 
Thứ tư, vai trò của BQL chợ còn nhiều hạn chế thể hiện: Không chủ động trong việc sử dụng kinh phí tái đầu tư cho chợ. Các chợ có những đóng góp quan trọng cho việc tạo nguồn thu cho NSNN, tuy nhiên nguồn thu này không được trích lại để đầu tư, nâng cấp, sửa chữa chợ. Do đó khi chợ bị xuống cấp, hư hỏng cần có những kế hoạch sửa chữa lớn thì BQL chợ phải trình lên UBND cấp có thẩm quyền theo phân cấp quản lý phê duyệt và quyết định, rồi sau đó mới cấp kinh phí xuống. Việc làm thu tục giấy tờ để xin kinh phí, chờ phê duyệt có khi phải mất cả tháng mới xong, gây ảnh hưởng đến hoạt động của chợ.
Thứ năm, chính sách của Nhà nước đối với BQL chợ không khuyến khích BQL phát huy tính năng động của mình. BQL là đơn vị sự gnhiệp có thu, kinh phí hoạt động của BQL do ngân sách cấp và không có chế độ đãi ngộ cho các BQL  hoạt  động. 
Thứ sáu, do dân số cơ học trên địa bàn tăng nhanh và di chuyển đến không đồng đều (dân cư ở nơi khác đến chủ yếu tập trung vào các khu đô thị mới). Trong khi đó, các khu đô thị này khi phê duyệt quy hoạch đều có quy hoạch bố trí các chợ và siêu thị nhưng đến khi xây dựng lại thiếu đồng bộ, quy hoạch chợ không phù hợp với quy hoạch đô thị. Do đó không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, tư đó phát sinh ra nhiều chợ tạm, chợ cóc.
Thực  trạng  đó  đòi  hỏi  trong  thời  gian  tới  cần  phải  có  sự  phối  hợp  kiên quyết giữa các cơ quan chức năng để giải tỏa các chợ tạm, chợ cóc, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và văn minh đô thị.
Thứ bảy, vấn đề an ninh trật tự, an toàn Phòng cháy chữa cháy (PCCC), vệ sinh môi trường chưa thật sự được đảm bảo. Tình trạng chợ dơ bẩn, nhếch nhác vẫn còn, nhiều quầy sạp được bố trí không ngăn nắp, gọn gàng. Một nguyên nhân khá quan trọng là trình độ của bộ máy BQL còn yếu kém, thiếu năng lực, nhất là đối với các chợ mới  đi  vào  hoạt  động  thì  bộ  máy  BQL  còn  ít,  chưa  hoàn  chỉnh,  thiếu  kinh nghiệm  dẫn  đến  lúng  túng  khi  triển  khai  thực  hiện  các  công  tác  trên.  Do đó không đảm bảo được tính văn minh thương mại trong chợ. Một nguyên nhân nữa là do kinh phí hoạt động của BQL do NSNN cấp còn thấp, chưa nâng cao tinh thần trách nhiệm của BQL chợ.
Thứ tám, sự hạn chế của các dịch vụ trong chợ. Hiện nay, việc tổ chức, kinh doanh, phát triển các dịch vụ hỗ trợ trong các chợ mới chỉ đảm bảo ở mức tối thiểu như trông giữ xe, vệ sinh, bảo vệ đêm. Hầu hết các chợ còn chưa có các dịch vụ về kho bảo quản hàng hoá, bốc xếp hàng hoá, dịch vụ đo lường, kiểm tra chất lượng hàng hoá…
4. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề tổ chức và quản lý chợ ở Việt Nam hiện nay
- Đối với chợ thuộc Tỉnh, Quận, Huyện quản lý
Từng bước chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý BQL chợ sang mô hình tổ chức doanh nghiệp hoạt động theo Luật, thông qua hình thức đấu thầu, trong đó chủ yếu là mô hình tổ chức: Công ty cổ phần kinh doanh khai thác và quản lý chợ, Hợp tác xã (HTX) kinh doanh khai thác  và quản lý chợ, Công ty tư nhân kinh doanh khai thác và quản lý chợ. Ban quản lý chợ, đối  với  các  chợ  chưa  có  điều  kiện  chuyển  đổi  thì  thành  lập  một  Ban quản lý chợ hoạt động theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ.
- Đối với các chợ thuộc phường, xã quản lý
Bao  gồm  các  chợ  do  phường  xây  dựng  theo  quy  hoạch  bằng  vốn  của phường đầu tư hoặc huy động của các thành phần kinh tế, các hộ kinh doanh. Có các hình thức sau:
+ Thành lập HTX kinh doanh, khai thác và quản lý chợ.
 Đối với những chợ được xây dựng do vốn của các thành phần kinh tế, cá nhân đầu tư xây dựng, Nhà nước cấp quyền sử dụng đất. Nếu đủ điều kiện thì cho phép chuyển đổi thành lập HTX kinh doanh khai thác và quản lý chợ. Phương thức chuyển đổi: Thông qua vốn góp của các thành phần kinh tế, cá nhân chuyển đổi thành vốn cổ phần tham gia HTX và kết nạp xã viên theo hình thức huy động vốn nếu có nhu cầu. Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất và thu thuế sử dụng đất, thuế kinh doanh theo quy định của pháp luật.
 Đối với các chợ do UBND phường, xã đầu tư: Thực hiện hình thức đấu thầu, nhưng ưu tiên thành phần kinh tế HTX.
+ Thành lập công ty kinh doanh khai thác và quản lý chợ.
Đối với các chợ do UBND phường, xã đầu tư: Thực hiện hình thức đấu thầu, thành lập công ty cổ phần hoặc công ty tư nhân.
Đối với các chợ được xây dựng do vốn của các thành phần kinh tế, cá nhân đầu tư xây dựng, Nhà nước cấp quyền sử dụng đất. Nếu đủ điều kiện thì cho phép thành lập công ty cổ phần.
- Đối với các chợ thành lập mới
Đối với các chợ do UBND Tỉnh, quận, huyện đề nghị và UBND thành phố cho phép đầu tư xây mới, huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế để xây dựng. Việc xây dựng phải đảm bảo đúng quy hoạch, theo thiết kế và theo tiến độ triển khai thực hiện dự án được Thành phố phê duyệt.
Đối với các chợ thuộc Tỉnh, Quận, Huyện quản lý: thành lập công ty cổ phần hoặc công ty tư nhân hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Nhà nước cần ban hành những cơ chế chính sách ưu đãi để huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xây dựng và kinh doanh chợ
Về đầu tư: Hoạt động kinh doanh chợ phải được hưởng một ưu đãi nhất định, ngoài những ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước (đã sửa đổi), tức là các tổ chức, cá nhân đầu tư, xây dựng chợ thì Nhà nước, địa phương nên hỗ trợ bằng nhiều hình thức như: hỗ trợ về đất đai, các thủ tục sẽ được làm thuận tiện, nhanh chóng, khuyến khích các ngân hàng cho họ vay vốn, cho vay vố ưu đãi từ các nguồn giải ngân, viện trợ…
Hiện tại, dành một tỷ lệ thích đáng từ các nguồn thu ở chợ (ngoài thuế) để thực hiện tái đầu tư, trước hết là sửa chữa, nâng cấp đối với các chợ đã hư hỏng nghiêm trọng, các chợ không đảm bảo hoạt động kinh doanh.
Về tài chính, tín dụng: Việc đầu tư kinh doanh khai thác chợ không đơn thuần là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội, liên quan tới an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh môi trường và an toàn PCCC. Do đó, để khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư xây dựng chợ, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ lãi suất hoặc áp dụng chính sách cho vay kích cầu đối với các dự án đầu tư xây dựng chợ mới.
 Kinh doanh khai thác chợ cũng như kinh doanh bất kỳ một loại hình nào, các tổ chức, cá nhân cũng đều phải có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, đói với các hoạt động kinh doanh chợ Nhà nước nên có những áp dụng ưu đãi riêng như quy định mứa thuế thấp hơn so với các loại hình kinh doanh khác hoặc miễn thuế cho doanh nghiệp trong một vài năm đầu hoạt động.
 Giao quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị tự cân đối, tự hạch toán thu, chi, tự chịu trách nhiệm về tài chính, gắn kết quả hoạt động và quản lý theo pháp luật.
Tăng cường quản lý thu thuế đối với các hộ kinh doanh ngoài chợ đảm bảo chống thất thu và công bằng giữa các hộ kinh doanh trong và ngoài chợ. Việc thu thuế không chặt chẽ đối với các hộ kinh doanh ngoài chợ làm cho giá của cùng một mặt hàng trong chợ sẽ cao hơn ngoài chợ, do đó hoạt động kinh doanh chợ sẽ không hiệu quả..
- Trong thời gian trước mắt, cần tiếp tục cải tổ lại bộ máy BQL chợ, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ quản lý chợ cho các cán bộ công nhân viên trong BQL.
Để khắc phục tình trạng đa số cán bộ quản lý chợ trong biên chế Nhà nước được điều động từ các ngành khác, không có nghiệp vụ chuyên ngành, chủ yếu là quản lý theo kinh nghiệm. Mặt khác, chúng ta cũng đang thiếu những cán bộ quản lý có trình độ, nhiều chợ vẫn còn có quá ít cán bộ. Do vậy, cần mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về công tác quản lý chợ cho số cán bộ hiện có và đào tạo thêm những cán bộ chuyên ngành về công tác quản lý chợ lâu dài cho các địa phương, có thể phối hợp với các trường thuộc Bộ Thương mại tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên quản lý chợ.
Ngoài ra, các cán bộ quản lý cấp cao như cấp tỉnh, thành phố, cán bộ các Sở, Bộ, Ngành liên quan cần thiết có thêm những lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ, những chuyến tập huấn, phải đi thực tế ở các chợ tiêu biểu, như thế mới đảm bảo sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, mới giúp cho họ ban hành những chính sách một cách chính xác, sát thực và hiệu quả. Nghĩa vụ bao giờ cũng phải gắn liền với các lợi ích, vì vậy cần thiết phải có các chính sách đãi ngộ, chính sách lao động hợp lý đối với đội ngũ cán bộ quản lý chợ.
Mặt khác, Nhà nước cần có những chính sách đãi ngộ, chế độ lương đối với cán bộ quản lý chợ như chính sách lương, chính sách thi đua khen thưởng… để tạo động lực đối với cán bộ quản lý chợ bởi vì mức lương hiện nay của cán bộ quản lý chợ là quá thấp, đồng thời không có chế độ đãi ngộ nào.
- Chính quyền địa phương các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng: để kiên quyết giải toả các tụ điểm chợ tạm, chợ xanh, chợ cóc lấn chiếm lòng lề đường hoặc xung quanh các chợ chính thức. Việc thu thuế của những hộ kinh doanh ở các tụ điểm này là rất khó khăn.
- Việc chuyển đổi mô hình tổ chức BQL chợ thành lập Công ty cổ phần, HTX hoặc Công ty tư nhân kinh doanh khai thác và quản lý chợ phải được tiến hành  khẩn  trương  nhưng  thận  trọng  nhưng  thận  trong,  từng  bước  vững  chắc, phải tổ chức thí điểm, rút kinh nghiệm rồi mới nhân rộng ra. Trong qua trình tổ chức thực hiện phải xác định rõ trách nhiệm của các phòng, ban chức năng.
- Cần chú ý giải quyết một số vấn đề tồn tại đó là kiểm tra tình hình giá cả, hàng giả, hàng không rõ nguồn gốc để bảo đảm chất lượng phục vụ cũng như uy tín của hoạt động chợ. Vấn đề an ninh trật tự tại khu vực chợ  đang có chiều hướng phức tạp, tình trạng móc túi, kẹt xe… nên cần có sự quan tâm của chính quyền địa phương, cụ thể là bảo vệ khu vực chợ tăng cường công tác kiểm tra và tuần tra. Mỗi chợ nên thành lập một tổ kiểm tra các hoạt động cũng như vi phạm của các hộ kinh doanh, cho phép tổ kiểm tra này có quyền xử phạt hành chính, tạm dừng hoạt động kinh doanh của các sạp hàng vi phạm (ví dụ, vi phạm về phòng cháy chữa cháy, vi phạm về hành vi thương mai…).
5. Kết luận
Chợ là một loại hình thương mại có từ rất lâu đời của nước ta, nó đang nắm thị phần chủ yếu trong kênh phân phối hàng hóa của toàn xã hội, nó vẫn là nơi giao lưu buôn bán duy nhất của một số địa phương trong nước ta. Chợ đã tạo được nét văn hóa mua sắm, tiêu dùng của người dân, đồng thời chợ là địa điểm tham quan của du khách, cũng như người dân địa phương. Do đó, việc phát triển mô hình hoạt động chợ ở Việt Nam là rất cần thiết. Tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất và quy mô của mỗi loại chợ mà lựa chọn một mô hình tổ chức quản lý thích hợp, chứ không nên chỉ rập khuôn một cách máy móc. Nếu không chúng ta sẽ không tránh khỏi những thất bại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ, https://thuvienphapluat.vn.
[2]. Đại Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, tr.138, 2003.
[3]. Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Một số vấn đề lý luận về chợ và mô hình tổ chức quản lý chợ, Phiên bản trực tuyến: http://voer.edu.vn/c/7d74fa34.
[4]. Nguyễn Thị Thoa, Vai trò của chợ trong đời sống người Việt, Luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ học, Đại học KHXH&NV TP.HCM, tr.45, 2011.

Tác giả bài viết: ThS. Nguyễn Thị Thanh Tâm