Một số vấn đề về “Lẽ công bằng” theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2015 từ khi ra đời, đã có nhiều quy định mới, tháo gỡ được những vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, nhằm đảm bảo quyền khởi kiện, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức, BLTTDS 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” (Khoản 2, Điều 4). Theo đó, khi có những vụ việc dân sự, mặc dù pháp luật không quy định, không có các điều luật để áp dụng, không có tập quán, tương tự pháp luật hay án lệ thì Tòa án vẫn phải thụ lý giải quyết, và việc giải quyết này sẽ được thực hiện theo nguyên tắc “lẽ công bằng”. Vậy, “lẽ công bằng” là gì? Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích, bình luận những khó khăn trong quá trình áp dụng điều luật nói trên, từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực thi của điều luật trên thực tế.
1. Nguyên tắc “Lẽ công bằng” - Khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện
Lẽ công bằng là chế định đặc trưng của hệ thống pháp luật Common Law nhưng thực tế “lẽ công bằng” đã được đề cập đến trong pháp luật của người La Mã từ những năm 400 trước Công nguyên, ở các nước phương Đông thì vấn đề này hình thành và được xem là “đạo lý” “đạo đức xã hội” chứ không được xem lẽ phải là một phần của Luật công bằng[1].
Theo kinh nghiệm các nước, kể cả các nước có nền tư pháp lâu đời và phát triển, xét xử theo lẽ công bằng là một công việc khó khăn và phức tạp của tòa án nói chung và các thẩm phán nói riêng, bởi hai lẽ. Một là nguyên tắc hàng đầu của thẩm phán khi xét xử là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và các thẩm phán đều được đào tạo để xét xử theo phương thức cơ bản là áp dụng luật pháp hiện hành để ra các phán quyết cho các vụ án. Xét xử theo lẽ công bằng là việc không được đào tạo hoặc không quen thuộc. Hai là khi không có cơ sở luật định, thẩm phán bắt buộc phải dựa vào nhận thức và lương tâm của mình về lẽ công bằng[2]Và đối với quy định xét xử theo lẽ công bằng, hiện nay được áp dụng ở các nước sử dụng án lệ như Mỹ, Anh, Canada, Thụy Sỹ, Pháp... Cụ thể:
Tại nước Anh, từ thế kỷ 12, nguyên tắc công bằng đã dần trở thành một hệ thống pháp luật khác hẳn nhưng tồn tại song song và bổ sung cho hệ thống Common Law - là hệ thống coi trọng hình thức của quan hệ pháp luật, quy định cụ thể và rõ ràng của pháp luật và tính “giấy trắng mực đen” của thỏa thuận dân sự. Anh có tòa án riêng (Court of Equity hay Chancelor Court) để xét xử theo nguyên tắc công bằng mà nền tảng là công lý tự nhiên, bằng việc coi trọng ý chí thực nhưng ngay tình của các bên trong giao dịch và có thể bỏ qua hình thức văn bản thỏa thuận hay các quy định khô cứng về hình thức giao dịch của Common Law. Nguyên tắc công bằng thậm chí còn được ưu tiên áp dụng (overrule) trên cả Common Law. Hay Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp quy định tòa án có quyền tuyên cho con nợ không may mắn và ngay tình một thời hạn để trả nợ (Điều 1244) hay tòa án có quyền giảm bớt các nghĩa vụ có tính cách quá đáng của vị thành niên (Điều 484). Các trường hợp trên đây cho thấy nguyên tắc công bằng có ích lợi là làm cho các quy tắc pháp lý trở nên mềm dẻo và nhân đạo hơn[3]
Như vậy, ở nhiều nước trên thế lẽ công bằng đã được áp dụng khá phổ biến trong quá trình xét xử và được quy định một cách cụ thể trong các quy định pháp luật. Bên cạnh việc quy định trong các điều luật thì nguyên tắc công bằng cũng đã được nhiều nước trên thế giới đề cao trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Tại Việt Nam, trước đây chưa có một văn bản nào quy định về nguyên tắc  “lẽ công bằng” trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự hay vụ án hình sự. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp 2013 đã xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp 2013 để nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử trong bảo vệ quyền dân sự của chủ thể, bên cạnh việc thừa nhận áp dụng án lệ, lần đầu tiên BLDS Việt Nam thừa nhận việc áp dụng nguyên tắc chung và lẽ công bằng để giải quyết vụ, việc dân sự khi không có quy phạm để áp dụng trực tiếp, không có thỏa thuận, không thể áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự pháp luật. Khoản 2, Điều 6 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định  tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ và lẽ công bằng”
Và tại khoản 2, Điều 4 BLTTDS 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”.
Đến nay vẫn chưa có một khái niệm nào quy định về “lẽ công bằng”, do vậy đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau và hầu hết đó chỉ là cách hiểu mang tính chủ quan của mỗi cá nhân. Có người cho rằng lẽ công bằng là giá trị tư tưởng, giá trị đạo đức mà con người hướng tới, là những gì phù hợp với đời sống xã hội, với con người trong quan hệ dân sự. Có người lại cho rằng, đó là lẽ phải, là sự minh bạch, bình đẳng trong đời sống xã hội, nó phù hợp với luân lý, đạo đức… và nó chưa được pháp luật quy định, cũng như chưa có tập quán hay án lệ điều chỉnh. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng, việc xác định “lẽ công bằng” sẽ phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, và đôi khi còn phụ thuộc vào quan điểm công bằng của mỗi cá nhân, mỗi thành viên của hội đồng xét xử, khi thực hiện việc xét xử tại Tòa.
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 45 BLTTDS 2015: “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải, được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”. Như vậy, lẽ công bằng phải là những giá trị, tư tưởng, quan điểm tốt đẹp mà mọi người hướng đến. Và với quy định như trên, tôi có một số quan điểm như sau:
Thứ nhất, phải xác định như thế nào là “lẽ phải, được mọi người trong xã hội thừa nhận, không có sự thiên vị và tất cả đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ”.
Khi chưa có một văn bản nào hướng dẫn thi hành quy định này, thì việc xác định như thế nào là “lẽ phải” sẽ gặp không ít khó khăn. Thực tế có thấy rằng, mỗi một cá nhân đều có những quan điểm khác nhau, cách nhìn nhận vấn đề khác nhau, nên cùng một sự việc xảy ra, mỗi người sẽ có một cách nhìn, cách đánh giá riêng, điều này dẫn đến những tranh cãi trong quan niệm hay ý kiến về sự công bằng.
Bên cạnh đó, mặc dù pháp luật đã quy định không có sự thiện vị và mọi người đều có sự bình đẳng khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, chủ thể nào sẽ có thẩm quyền, đủ cái tình, cái lý để “cầm cân nảy mực” phán xét rằng có sự thiên vị hay không thiên vị trong quá trình xét xử của Hội đồng xét xử (HĐXX).
Đối với quy định này, có thể hiểu vai trò của HĐXX sẽ được đề cao, và việc giải quyết sẽ dựa vào quan điểm chủ quan của HĐXX. HĐXX sẽ có toàn quyền quyết định trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự  khi chưa có các điều luật để áp dụng theo hướng mà họ xem đó là lẽ phải, là công bằng.Vậy để giải quyết vụ án một cách công bằng, giải quyết theo hướng mà các đương sự đều mong muốn, thì bản thân mỗi thành viên của HĐXX phải thực sự công tâm, hiểu biết xã hội, hiểu lý lẽ. Nhưng, nhận thức của mỗi chủ thể hầu như không giống nhau, dẫn đến không có quan điểm chung, không thống nhất được việc giải quyết vấn đề, do vậy, rất khó khăn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Đồng thời, có thể sẽ xảy ra trường hợp, cùng một vụ việc dân sự tương tự nhau, nhưng được giải quyết ở các Tòa án khác nhau, có thể giải quyết và cho ra kết quả khác nhau. Điều này dẫn đến những mâu thuẫn và đôi khi là cả sự không công bằng giữa mỗi cá nhân.Và khi pháp luật trao cho HĐXX cán cân công lý, dễ dẫn đến sự tùy tiện, lạm dụng quan điểm cá nhân trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
Thứ hai, cơ chế giải quyết đối với các trường hợp áp dụng lẽ công bằng không đúng với tinh thần của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Để pháp luật thực định có thể đi vào thực tế, được thực thi có hiệu quả là một điều vô cùng khó khăn khi mỗi người còn có những cách hiểu, cách nhìn nhận điều luật khác nhau. Pháp luật quy định: “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải, được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”.
Câu hỏi đặt ra, khiTòa án sẽ giải quyết vụ án dân sự theo nguyên tắc áp dụng “lẽ công bằng”, nếu các thành viên của HĐXX áp dụng lẽ công bằng một cách tùy tiện, không thể hiện được sự công bằng trong việc giải quyết, liệu rằng có cơ chế nào để xử lý các trường hợp này hay không? Và nếu không có cơ chế xử lý vi phạm trong việc áp dụng lẽ công bằng sẽ có hậu quả như thế nào? Chắc hẳn sẽ có sự tùy tiện, lạm dụng pháp luật từ chính những cá nhân trong HĐXX. Thiết nghĩ rằng, khi giải quyết theo lẽ công bằng cần đặt ra cơ chế xử lý phù hợp. Trường hợp, nếu HĐXX giải quyết vụ việc dân sự không công tâm, không đảm bảo được tính khách quan, có sự thiên vịthì cần phải có các biện pháp để nhằm tránh các trường hợp trên có thể xảy ra trên thực tế giải quyết các vụ việc dân sự. Cụ thể, để đảm bảo tính khách quan, vô tư, công bằng của HĐXX  khi làm nhiệm vụ cần có các chế tài đối với các hành vi vi phạm khi giải quyết các vụ việc dân sự, chế tài này phải đảm bảo được tính răn đe cho những người khác.
Thứ ba, đối với các vụ việc dân sự được giải quyết theo lẽ công bằng, các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị không?
Theo quy định của Hiến pháp thì khi xét xử, Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.  Vậy khi không có điều luật để áp dụng và chỉ giải quyết theo “lẽ công bằng” thì Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là như thế nào?.Đồng thời, nếu trong quá trình xét xử sơ thẩm, trường hợp các đương sự có đủ căn cứ để kháng cáo, Viện kiểm sát có đủ căn cứ để kháng nghị thì đương sự có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Vậy, khi giải quyết theo lẽ công bằng, liệu đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghịhay không?
Giả sử trong trường hợp pháp luật quy định cho đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị. Vậy, Tòa án cấp phúc thẩm sẽ giải quyết như thế nào? Bởi lẽ công bằng ở mỗi người là không giống nhau, đối với một vụ án, ở Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng như vậy là công bằng, nhưng ở cấp phúc thẩm lại cho rằng đó không phải là công bằng. Vậycông bằng sẽ nằm ở đâu và giải quyết đến bao giờ mới để cho các bên thỏa mãn với quyết định của Tòa án thì đó quả là một điều không dễ dàng.
Từ phân tích trên, thiết nghĩ việc quy định chung chung của điều luật này sẽ còn gây ra nhiều tranh cãi và chưa thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá cũng như thống nhất trong cách hiểu của mỗi người.Việc áp dụng điều luật này trên thực tế, sẽ còn gặp nhiều khó khăn, khó bảo đảm khách quan, công bằng cho tất cả các đương sự tham gia vào quá trình tố tụng nếu như chưa có sự hướng dẫn cụ thể.
2. Một số giải pháp giải quyết khó khăn trong việc áp dụng nguyên tắc lẽ công bằng
Để giải quyết được một số khó khăn trong quá trình triển khai áp dụng nguyên tắc lẽ công bằng chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, về vấn đề ban hành văn bản hướng dẫn thi hành.
Để Tòa án các cấp thực hiện việc xét xử được thuận lợi,tránh sự mâu thuẫn, lúng túng trong cách hiểu và cách áp dụng, và giúp cho Tòa án giải quyết các yêu cầu của nhân dân khi áp dụng theo lẽ công bằng, cũng nhưtránh sự lạm dụng của Thẩm phán nói riêng và Hội đồng xét xử nói chung trong việc giải quyết vụ việc dân sự khi áp dụng nguyên tắc “lẽ công bằng”, thì giải pháp đặt ra là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có quy định (văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành điều luật) rõ các nội dung về lẽ công bằng làm căn cứ để Tòa án áp dụng giải quyết các vụ, việc dân sự khi pháp luật chưa can thiệp kịp.
Thứ hai, về vấn đề cơ chế xử lý đối với các chủ thể có hành vi thiên vị, không đảm bảo tính công bằng trong xét xử.
Điều này thể hiện ở chỗ, pháp luật cần quy định các chế tài đối với HĐXX thể hiện tính răn đe đối với các chủ thể này trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các văn bản hướng dẫn thi hành cần chỉ ra được các hành vi vi phạm cụ thể nào sẽ bị áp dụng mức chế tài tương ứng. Việc quy định chế tài cũng phải được áp dụng một cách đồng bộ, nhằm tránh trường hợp mỗi một Tòa án sẽ có cách áp dụng khác nhau, kéo theo cách xử lý các thành viên của HĐXX cũng khác nhau.
Thứ ba, cần nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử.
Các thành viên của Hội đồng xét xử là những chủ thể “cầm cân nảy mực” để đưa ra một bản án thấu tình đạt lýcác chủ thể này phải có năng lực xét xử và đạo đức phẩm chất trong sáng, đồng thời phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Để làm được điều này, mỗi cá nhân phải tự nhận thức và rèn luyện bản thân, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Bên cạnh đó, cần tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn, nâng cao nhận thức vai trò của HĐXX trong công tác chuyên môn.
Quan trọng hơn cả, chính bản thân mỗi một thành viên của Hội đồng xét xử cần nhận thức sâu sắc lẽ công bằng, sự công bằng trong chính lương tâm mỗi người, ở họ phải thể hiện được sự công bằng trong xét xử, luôn tôn trọng sự thật khách quan, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ tư, cần có các chế độ phù hợp cho Thẩm phán như: chế độ tiền lương để tránh trường hợp Thẩm phán bị cám dỗ trước những lợi ích vật chất, hay việc bổ nhiệm Thẩm phán cần áp dụng việc bổ nhiệm thẩm phán suốt đời sau khi tổ chức thi và tuyển chọn một cách khách quan, nghiêm túc, để họ tâm huyết hơn với nghề và có thời gian đóng góp công sức, trí tuệ cho xã hội nhiều hơn. Kéo theo đó, thì công tác tổ chức thi tuyển vào ngạch Thẩm phán phải có những yêu cầu cao hơn, quy trình phải đảm bảo tính chặt chẽ để lựa chọn ra những người có đầy đủ năng lực, phẩm chất, đạo đức, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm công tác, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần đem lại lẽ phải, công bằng, niềm tin vào công lý cho xã hội.
Đồng thời, đối với những thành viên của HĐXX luôn thực hiện nhiệm vụ một cách công tâm, luôn xét xử công bằng, thấu tình đạt lý cần có những biện pháp khen thưởng, các chế độ đãi ngộ để phát huy thêm những mặt tích cực, những kết quả đã đạt được và hạn chế những gì còn tồn tại, thiếu sót, có như vậy “lẽ công bằng” mới thực sự đúng với bản chất, với tinh thần mà pháp luật đã quy định.
3. Kết luận
Áp dụng “lẽ công bằng” trong tố tụng dân sự đó là một trong những điểm mới cơ bản của BLTTDS 2015, thể chế hóa trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo cơ chế pháp lý đầy đủ để các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện thông qua hoạt động xét xử của Tòa án. Để quy định đó của pháp luật có thể áp dụng một cách dễ dàng, thiết nghĩ cần có sự hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn. Để làm được điều này, quy định về việc áp dụng lẽ công bằng cần dễ hiểu, tránh gây ra sự lúng túng hay khó khăn trong quá trình áp dụng.
Và cuối cùng, lẽ công bằng không phải là điều gì xa lạ mà chính là công lý, là lẽ phải mà mọi người trong xã hội hướng đến. Dù xét xử theo quy định của pháp luật hay theo lẽ công bằng, đích đến cuối cùng mà mọi người mong muốn đạt được trong mỗi bản án, quyết định đó chính là sự công tâm của Hội đồng xét xử, sự công bằng, bình đẳng cho mỗi người.


[1] Nguồn: https://hocluat.vn/che-dinh-le-cong-bang-trong-bo-luat-to-tung-dan-su-2015/
[2] Nguồn: http://plo.vn/phap-luat/xu-an-bang-le-cong-bang-604754.html
[3] Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/132061/Le-cong-bang-cong-ly-va-vai-tro-cua-toa-an.html

Tác giả bài viết: Giáo viên: Nguyễn Hương