NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020

Đặt vấn đề
Ngày 17 tháng 6 năm 2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2020. Các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 có nhiều điểm mới nổi bật, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong giai đoạn gia nhập thị trường và trong quá trình đầu tư, kinh doanh. Bài viết dưới đây của tác giả sẽ tổng hợp, phân tích những điểm mới cơ bản của Luật Doanh nghiệp năm 2020.
1. Một số điểm mới về việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp
1.1. Bãi bỏ thủ tục thông báo mẫu con dấu của doanh nghiệp
Theo đánh giá tại Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) 2020 của Ngân hàng Thế giới, chỉ số khởi sự kinh doanh của Việt Nam trong năm 2019 xếp thứ 115/190 nền kinh tế, giảm 11 bậc so với năm 2018 (xếp 104/190), với tổng số 08 thủ tục và thời gian thực hiện là 16 ngày, trong đó bao gồm thủ tục thông báo mẫu con dấu đến Cơ quan đăng ký kinh doanh với thời gian thực hiện là 1/16 ngày.
Từ năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã trao quyền cho doanh nghiệp tự quyết định số lượng, hình thức, nội dung của con dấu theo Điều lệ công ty hoặc quy chế hoạt động và trước khi sử dụng con dấu, doanh nghiệp phải thông báo mẫu con dấu đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Sau 5 năm, thực tiễn thi hành Luật cho thấy cơ quan quản lý nhà nước không thực sự cần thiết phải can thiệp vào việc làm dấu và sử dụng dấu của doanh nghiệp. Do vậy, nhằm tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp khi gia nhập thị trường, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bãi bỏ quy định về việc doanh nghiệp phải thông báo mẫu con dấu đến cơ quan đăng ký kinh doanh.
Theo thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau 5 năm triển khai thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2014, từ 01/7/2015 đến 01/7/2020 đã có 910.950 lượt doanh nghiệp thông báo mẫu con dấu trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (bao gồm thông báo mẫu con dấu khi thành lập doanh nghiệp và khi thay đổi mẫu con dấu); riêng năm 2019, con số này là 136.915 lượt. Như vậy, có thể thấy, việc bãi bỏ quy định nêu trên sẽ giảm bớt được hàng trăm nghìn lượt thông báo mẫu con dấu mỗi năm cho cộng đồng doanh nghiệp, giảm bớt đáng kể số lượng thủ tục hành chính mà doanh nghiệp cần thực hiện khi gia nhập thị trường và trong quá trình hoạt động.
Việc luật quy định doanh nghiệp có thể lựa chọn giữa con dấu hoặc chữ ký điện tử làm dấu của doanh nghiệp là phù hợp với xu thế chung của thế giới và nhu cầu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhìn nhận vào thực tế hiện nay, đối với việc sử dụng chữ ký số phải mất khá nhiều thời gian nữa mới có thể triển khai đồng bộ được do công nghệ thông tin trong lĩnh vực này chưa thực sự phổ biến, nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ lẻ chưa thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin vào các giao dịch.
1.2. Bổ sung quy định về phương thức đăng ký doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung quy định về các phương thức đăng ký doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp có thể thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp theo các phương thức sau: (i) Nộp trực tiếp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh; (ii) Qua dịch vụ bưu chính; (iii) Qua mạng thông tin điện tử.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng bổ sung quy định cụ thể về giá trị pháp lý của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử và phương thức xác thực hồ sơ. Theo đó, đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử dù đăng ký bằng chữ ký số công cộng hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh vẫn không cần phải nộp lại hồ sơ giấy (gốc) khi nhận kết quả (Nghị định 78/2015 – quy định nộp bằng tài khoản đăng ký kinh doanh phải nộp lại hồ sơ giấy (gốc) khi nhận kết quả); đồng thời, cá nhân, doanh nghiệp thanh toán phí công bố trong quá trình nộp hồ sơ trực tuyến trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (không phải nộp vào tài khoản Sở Kế hoạch và Đầu tư như trước đây). Việc luật hóa các quy định nêu trên giúp doanh nghiệp có thêm lựa chọn về phương thức khi thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
1.3. Bổ sung thêm đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần
- Bổ sung các trường hợp không được thành lập và quản lý doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung thêm một số đối tượng không được phép thành lập, quản lý doanh nghiệp như: Những người gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ Luật Hình sự.
- Bổ sung trường hợp không được góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp
Ngoài việc quy định thêm các trường hợp không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp như trên, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng bổ sung nhóm đối tượng không được góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp, cụ thể là các đối tượng bị cấm theo Luật Phòng chống tham nhũng.
Có thể thấy Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định chặt chẽ hơn các đối tượng có quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp; góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp tại Việt Nam. Đồng thời để tạo sự nhất quán giữa một số Bộ luật, Luật hiện hành, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng nêu rõ rằng người quản lý và người quản lý nghiệp vụ của các doanh nghiệp Nhà nước chỉ bị cấm thành lập và quản lý một doanh nghiệp khác trong trường hợp là doanh nghiệp Nhà nước. Việc sửa đổi này được thực hiện song song với việc sửa đổi định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp năm 2020.
2. Những điểm mới về quản trị doanh nghiệp
Những thay đổi của khung pháp lý về quản trị doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 được kỳ vọng sẽ giúp tăng cường mức độ bảo vệ quyền cổ đông, tạo môi trường kinh doanh an toàn, thúc đẩy và huy động vốn đầu tư. Theo đó, một số nội dung được sửa đổi, bổ sung bao gồm: Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, thời hạn góp vốn bằng tài sản, cơ cấu tổ chức quản lý công ty.
2.1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm: Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ, người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật, người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 12). Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung cụm từ “người yêu cầu giải quyết việc dân sự”, do đó, người đại diện theo pháp luật sẽ có thêm vai trò đại diện cho doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc dân sự. Quy định này đã phù hợp, đồng bộ với quy định về vai trò người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khi tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, về số lượng người đại diện cũng như quyền và nghĩa vụ của người đại diện của doanh nghiệp: Khoản 2 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Nếu công ty có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật, thì điều lệ công ty quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật. Trường hợp việc phân chia quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được quy định rõ trong điều lệ công ty, thì mỗi người đại diện theo pháp luật của công ty đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba; tất cả người đại diện theo pháp luật phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật dân sự và quy định của pháp luật có liên quan.
Như vậy, điểm mới này của Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bảo đảm tính minh bạch trong việc xác định trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ngay cả khi quyền và nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật chưa được điều lệ công ty quy định rõ.
Thứ ba, về việc cử người đại diện theo pháp luật: Khoản 5 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định, đối với doanh nghiệp chỉ còn một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không có ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hoặc chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.
Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bỏ trường hợp cử người đại diện đối với người đại diện theo pháp luật bị kết án tù, đồng thời, bổ sung các trường hợp cử người đại diện khi người đại diện theo pháp luật đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Việc thay đổi, bổ sung các nội dung nói trên bảo đảm bao quát được các trường hợp cần cử người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị doanh nghiệp trong áp dụng pháp luật.
Thứ tư, về trường hợp đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật: Khoản 6 Điều 12 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định, đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty chết, mất tích, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty. So với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bỏ hai trường hợp là một trong hai thành viên của công ty bị kết án tù và bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng bổ sung các trường hợp thành viên còn lại của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty nếu một trong hai thành viên rơi vào các trường hợp như quy định tại khoản 6 Điều 12. Các nội dung sửa đổi này đã khắc phục được hạn chế liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, tránh được các rủi ro pháp lý cho các bên trong quan hệ giao dịch.
2.2. Thời hạn góp vốn bằng tài sản
Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về thời hạn góp vốn khi thành lập công ty, bổ sung thời hạn góp vốn sẽ không bao gồm thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản. Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài sản đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tại Điều 47, Điều 75 và Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Quy định này là phù hợp, bảo đảm quyền góp vốn của các thành viên. Tuy nhiên, cần có hướng dẫn về giới hạn của thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản trong nghị định hướng dẫn để bảo đảm sự thống nhất, minh bạch.
2.3. Cơ cấu tổ chức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
- Quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông trong công ty cổ phần
Nhằm khắc phục hạn chế của Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung một số vấn đề như sau:
+ Mở rộng phạm vi, quyền của đối tượng cổ đông, nhóm cổ đông nhỏ: Cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ từ 05% tổng số cổ phần phổ thông trở lên hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại điều lệ công ty có các quyền nhất định về thông tin như xem xét, tra cứu, trích lục một số tài liệu của công ty; có quyền yêu cầu triệu tập cuộc họp cổ đông để đánh giá các hành động của Hội đồng quản trị hoặc những người quản lý khác của công ty; có quyền yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết (khoản 2 Điều 115). Quy định mới về quyền của cổ đông nắm giữ từ 05% có quyền biểu quyết thay vì 10% như trước đây và bãi bỏ điều kiện sở hữu cổ phần phải trong thời hạn liên tục 06 tháng được đánh giá là phù hợp với quy định về cổ đông lớn trong Luật Chứng khoán năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021), theo đó, cổ đông lớn được định nghĩa là cổ đông sở hữu từ 05% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một tổ chức phát hành (khoản 18 Điều 4). Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế như hiện nay và số lượng các công ty cổ phần có vốn hóa lớn, tỷ lệ nắm giữ 05% cổ phần biểu quyết của cổ đông tại bất cứ thời điểm nào mà không cần thời hạn nhất định (06 tháng liên tục) để có thể thực thi các quyền như trên là phù hợp và sát với thực tế.
Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã mở rộng quyền tiếp cận thông tin và tăng khả năng giám sát của các cổ đông đối với các giao dịch cần được giám sát như giao dịch với người có liên quan nhằm hạn chế việc thất thoát tài sản, gây thiệt hại cho công ty. Luật cũng loại trừ quyền tiếp cận thông tin đối với các tài liệu liên quan đến bí mật thương mại, bí mật kinh doanh của công ty.
+ Đối với quyền khởi kiện của cổ đông nắm giữ 01% cổ phần: Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bổ sung cho cổ đông, nhóm cổ đông có quyền khởi kiện, quyền xem xét, tra cứu, trích lục thông tin cần thiết theo quyết định của Tòa án, trọng tài trước hoặc trong quá trình khởi kiện, đồng thời, bỏ yêu cầu thời hạn nắm giữ liên tục trong 06 tháng của các cổ đông nắm giữ ít nhất 01% cổ phần để các cổ đông này có thể thực thi quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện người quản lý công ty liên quan đến các quyết định, hành động trong quá trình điều hành doanh nghiệp (khoản 1 Điều 166); bổ sung khái niệm “trách nhiệm liên đới” của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc liên quan đến quyền khởi kiện của các cổ đông nắm giữ 01% cổ phần trở lên, ghi rõ nội dung yêu cầu của cổ đông khi khởi kiện là yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công ty hoặc người khác. Định nghĩa về “người khác” trong quy định này cũng cần phải được hướng dẫn cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2020 để bảo đảm việc thực thi quyền của cổ đông được đầy đủ và chính xác.
Như vậy, với việc mở rộng quyền của cổ đông, nhóm cổ đông nhỏ trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 được xem là sự tiệm cận dần đến chuẩn mực theo thông lệ phổ biến trong khu vực và quốc tế, vì theo pháp luật Liên minh Châu Âu, các quốc gia thành viên khi quy định các quyền của cổ đông, nhóm cổ đông đối với quyền bổ sung chương trình nghị sự của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông và quyền đề xuất dự thảo nghị quyết về các vấn đề  nghị sự phải nắm giữ một lượng cổ phiếu tối thiểu với mức không vượt quá 05% vốn điều lệ của công ty. Bên cạnh việc kế thừa quy định về nghĩa vụ của cổ đông phổ thông tại Điều 115 Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 bổ sung một số nội dung như: Bảo mật các thông tin được công ty cung cấp theo quy định tại điều lệ công ty và pháp luật; chỉ sử dụng thông tin được cung cấp để thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nghiêm cấm phát tán hoặc sao, gửi thông tin được công ty cung cấp cho tổ chức, cá nhân khác (Điều 119).
- Quyền lựa chọn mô hình tổ chức quản lý và hoạt động của công ty cổ phần theo thông lệ quốc tế
+ Đối với mô hình tổ chức và hoạt động có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định phải có Ủy ban kiểm toán thuộc Ban kiểm soát thay vì Ban kiểm toán nội bộ thuộc Ban kiểm soát như Luật Doanh nghiệp năm 2014, đồng thời bổ sung quy định chi tiết về địa vị pháp lý, cơ cấu, điều kiện thành viên, thể thức thông qua quyết định cũng như quyền và nghĩa vụ của Ủy ban kiểm toán (Điều 161). Như vậy, Ủy ban kiểm toán sẽ không còn là thực thể mơ hồ và tùy nghi như Ban kiểm toán nội bộ, mà nó là một bộ phận tồn tại trong công ty phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Quyền của Đại hội đồng cổ đông còn được bổ sung về: (i) Quyền quyết định ngân sách hoặc tổng mức thù lao, thưởng và lợi ích khác cho Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; (ii) Phê duyệt quy chế quản trị nội bộ, quy chế hoạt động Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; (iii) Phê duyệt danh sách ban kiểm toán độc lập; quyết định công ty kiểm toán độc lập thực hiện kiểm tra hoạt động của công ty, bãi miễn kiểm toán viên độc lập khi xét thấy cần thiết (khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp năm 2020). Quy định này đã phân định rõ ràng thẩm quyền thuộc về Đại hội đồng cổ đông, khắc phục tình trạng Ban kiểm soát “vừa đá bóng vừa thổi còi” như tự ban hành quy chế hoạt động của mình hoặc quy chế hoạt động của Ban kiểm soát như Luật Doanh nghiệp năm 2014.
- Cơ cấu tổ chức, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã bỏ quy định về việc bắt buộc thành lập Ban kiểm soát, trừ trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 của Luật này và công ty con của doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 88 của Luật này phải thành lập Ban kiểm soát (Điều 54). Quy định này phù hợp với thực tiễn cũng như loại bỏ được các vấn đề cứng nhắc và không hiệu quả trong hoạt động của Ban kiểm soát cũng như không bảo đảm được tính độc lập khi đưa ra các ý kiến, duy trì Ban kiểm soát gây ra sự lãng phí về tài chính do các công ty phải trả thù lao cho các thành viên trong Ban kiểm soát. Hiện nay trên thế giới, nhất là các nước châu Âu, hầu hết các doanh nghiệp đều không có Ban kiểm soát trong công ty. Theo đó, các doanh nghiệp có quyền tự quyết lựa chọn phương án Ban kiểm soát hoặc có thể thành lập Ban kiểm toán nội bộ, điều này sẽ nâng cao hiệu quả giám sát hoạt động quản trị của doanh nghiệp, đảm bảo tính minh bạch và giúp giảm thiểu những rủi ro, thất thoát do gian lận.
2.4. Doanh nghiệp nhà nước
- Về khái niệm
Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định khái niệm “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.”.
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được sửa đổi tại khoản 11 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Theo đó, một doanh nghiệp sẽ đủ điều kiện là doanh nghiệp Nhà nước nếu Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ. Tỷ lệ 50% cũng là tỷ lệ vốn chi phối theo quy định của pháp luật.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng chia các doanh nghiệp Nhà nước thành hai nhóm: Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; và Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.
Trong trường hợp thứ nhất, doanh nghiệp sẽ được cơ cấu dưới hình thức Công ty TNHH một thành viên trong khi trong trường hợp thứ hai, công ty sẽ được cơ cấu dưới hình thức Công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc Công ty cổ phần. Điều này sẽ dẫn đến sự khác biệt về cơ cấu tổ chức và quản lý của doanh nghiệp.
Như vậy, quy định này giúp thể hiện rõ ràng hơn khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước đồng thời cũng làm đa dạng hóa loại hình Doanh nghiệp nhà nước so với quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.
- Doanh nghiệp nhà nước phải thành lập Ban Kiểm soát
Khoản 1 Điều 102 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định bổ nhiệm 01 Kiểm soát viên hoặc thành lập Ban kiểm soát gồm 03 đến 05 Kiểm soát viên. Nhiệm kỳ Kiểm soát viên không quá 05 năm và được bổ nhiệm lại nhưng mỗi cá nhân chỉ được bổ nhiệm làm Kiểm soát viên của một công ty không quá 02 nhiệm kỳ. Có thể thấy trong doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp năm 2014 có thể có hoặc không có Ban kiểm soát trong cơ cấu tổ chức quản lý của mình.
Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhà nước đã có sự thay đổi hoàn toàn trong hình thức và nội dung. Khoản 1 Điều 103 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Căn cứ quy mô của công ty, cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định thành lập Ban kiểm soát có từ 01 đến 05 Kiểm soát viên, trong đó có Trưởng Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ Kiểm soát viên không quá 05 năm và có thể được bổ nhiệm lại nhưng không quá 02 nhiệm kỳ liên tục tại công ty đó. Trường hợp Ban kiểm soát chỉ có 01 Kiểm soát viên thì Kiểm soát viên đó đồng thời là Trưởng Ban kiểm soát và phải đáp ứng tiêu chuẩn của Trưởng Ban kiểm soát.
Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định trong cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải có Ban kiểm soát. Quy định này nhằm đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp nhà nước được giám sát, đánh giá khách quan và trung thực.
3. Một số điểm mới về tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp
3.1. Tạm ngừng kinh doanh chỉ cần báo trước 3 ngày
Điều 200 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho Cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất 15 ngày trước ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh. Quy định này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo.
Nhưng tại khoản 1 Điều 206 Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp chỉ cần thông báo bằng văn bản cho Cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo.
Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã rút ngắn thời hạn thông báo tạm ngừng kinh doanh từ 15 ngày xuống còn 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020, ngoài trường hợp đã được quy định tại Điều 200 Luật Doanh nghiệp năm 2014, cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn có thể yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng, đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh trong trường hợp sau đây:
- Tạm ngừng kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật về quản lý thuế, môi trường và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh một, một số ngành, nghề kinh doanh hoặc trong một số lĩnh vực theo quyết định của Tòa án.
Đồng thời, trước đây, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn nợ; tiếp tục thanh toán các khoản nợ, hoàn thành việc thực hiện hợp đồng đã ký với khách hàng và người lao động, trừ trường hợp doanh nghiệp, chủ nợ, khách hàng và người lao động có thỏa thuận khác. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì ngoài các khoản trên thì trong thời gian tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp còn phải nộp đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp còn nợ.
3.2. Quy định loại trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Trong khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp “Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” thì điểm d khoản 1 Điều 207 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định doanh nghiệp bị giải thể trong trường hợp “bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Luật Quản lý thuế có quy định khác”.
Cụ thể, điểm g khoản 1 và khoản 2 Điều 125 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế là “Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp” và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế này sẽ chấm dứt hiệu lực kể từ khi tiền thuế nợ được nộp đủ vào ngân sách nhà nước.
Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định loại trừ trường hợp giải thể do bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Quy định này bảo đảm tính đồng bộ với quy định của Luật Quản lý thuế năm 2019.
3.3. Có thể chuyển đổi trực tiếp doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh
Điều 199 Luật Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn. Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020, tại Điều 205, doanh nghiệp tư nhân có thể chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, doanh nghiệp được chuyển đổi phải có đủ các điều kiện sau đây: Ngành, nghề đăng ký kinh doanh không bị cấm đầu tư kinh doanh; tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật về doanh nghiệp; có hồ sơ đăng ký doanh nghiệp hợp lệ; nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả khoản nợ chưa thanh toán và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn;
Thứ ba, chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty được chuyển đổi tiếp nhận và tiếp tục thực hiện các hợp đồng đó;
Thứ tư, chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của doanh nghiệp tư nhân.
Việc cho phép doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi trực tiếp thành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp thay đổi mô hình hoạt động phù hợp với tình hình tài chính, thực tiễn của doanh nghiệp và tương thích với các quy định tại Luật Cạnh tranh năm 2018.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có những điểm sửa đổi tích cực, từ cải cách thủ tục gia nhập thị trường chuyển mạnh sang nâng cao chất lượng doanh nghiệp, xây dựng được khung pháp lý về quản trị công ty. Với những đột phá này, các doanh nghiệp hứa hẹn sẽ tận dụng thành công để tạo ra những đột phá mới, góp phần cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy nội lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài nhằm duy trì tăng trưởng, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia./.

Tác giả bài viết: CN. Lê Thị Hiền, Khoa Đào tạo cơ sở