Những điểm mới cơ bản của Luật Công đoàn năm 2024
- Thứ tư - 16/04/2025 15:31
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Sau hơn một thập kỷ, Luật Công đoàn năm 2012 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của quan hệ lao động và nền kinh tế. Bên cạnh đó, trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA, yêu cầu về tổ chức Công đoàn độc lập và phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế ngày càng cao, đòi hỏi Luật Công đoàn phải sửa đổi để phù hợp với tình hình mới.
Ngày 27/11/2024, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Công đoàn năm 2024. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025. Luật Công đoàn năm 2024 có 6 chương, 37 điều (tăng 4 điều so với Luật hiện hành) với một số điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, mở rộng quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2012 quy định: "Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn". Nội dung này, Điều 5 Luật Công đoàn năm 2024 quy định như sau:
1. Người lao động Việt Nam có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn.
2. Người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên được gia nhập và hoạt động Công đoàn tại Công đoàn cơ sở.
Luật Công đoàn năm 2024 có sự thay đổi quan trọng khi mở rộng quyền gia nhập Công đoàn cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hợp đồng lao động từ đủ 12 tháng trở lên. Trước đây, theo Luật Công đoàn năm 2012, chỉ công dân Việt Nam mới có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn, điều này hạn chế khả năng bảo vệ quyền lợi của lao động nước ngoài. Việc bổ sung quy định này giúp hệ thống Công đoàn bao quát hơn, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Cụ thể, Điều 6 Luật Công đoàn năm 2024 quy định: Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp mà tự nguyện, tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam thì có quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam. Quy định này này nhằm tăng cường vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đảm bảo phù hợp sự phù hợp với nội dung của Bộ luật Lao động 2019.
Việc mở rộng quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn có nhiều ý nghĩa quan trọng. Trước hết, quy định này giúp người lao động là công dân nước ngoài có thêm công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi, tham gia thương lượng tập thể và giải quyết tranh chấp lao động. Đồng thời, quy định mới thể hiện cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA. Ngoài ra, người lao động Việt Nam và người lao động là công dân nước ngoài cùng được gia nhập và hoạt động Công đoàn sẽ tạo ra môi trường lao động bình đẳng, hài hòa, giúp doanh nghiệp và người lao động có tiếng nói chung trong thương lượng và giải quyết tranh chấp. Việc mở rộng đối tượng tham gia Công đoàn không chỉ tăng cường bảo vệ quyền lợi người lao động mà còn góp phần nâng cao vị thế của tổ chức Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, bổ sung nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam, đồng thời làm rõ nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế về Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 kế thừa các nguyên tắc cốt lõi về tổ chức và hoạt động trong Luật Công đoàn năm 2012, đồng thời có những bổ sung quan trọng. Cụ thể, khoản 1 Điều 7 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam là “hợp tác, phối hợp với người sử dụng lao động, đồng thời bảo đảm tính độc lập của tổ chức Công đoàn” nhằm phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Đây là một nguyên tắc quan trọng, giúp Công đoàn thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 quy định cụ thể hơn hơn nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế về Công đoàn, được quy định tại Điều 9, nhằm tăng cường sự hội nhập và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thứ ba, quy định cụ thể hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam (Điều 8)
Trước đây, Luật Công đoàn năm 2012 quy định: Hệ thống tổ chức Công đoàn gồm có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Luật Công đoàn năm 2024 tiếp tục thực hiện chỉ đạo tại Nghị quyết 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về đổi mới tổ chức hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới, trong đó có nội dung tiếp tục nâng cao hiệu quả mô hình tổ chức Công đoàn 4 cấp. Theo đó, Điều 8 Luật Công đoàn năm 2024 quy định rõ ràng hơn về hệ thống tổ chức của Công đoàn, cụ thể như sau:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất bao gồm 4 cấp sau đây:
a) Cấp trung ương là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
b) Công đoàn cấp tỉnh, ngành trung ương và tương đương bao gồm liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là liên đoàn lao động cấp tỉnh); Công đoàn ngành trung ương; Công đoàn tập đoàn kinh tế, Công đoàn tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
c) Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở bao gồm liên đoàn lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là liên đoàn lao động cấp huyện); Công đoàn ngành địa phương; Công đoàn tập đoàn kinh tế, Công đoàn tổng công ty không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này; Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam;
d) Công đoàn cấp cơ sở bao gồm Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn cơ sở.
Ngoài ra, Luật Công đoàn năm 2024 tiếp tục khẳng định vai trò duy nhất của Công đoàn Việt Nam trong việc đại diện người lao động ở cấp quốc gia. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 11, luật nêu rõ "Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện người lao động trong quan hệ lao động ở cấp quốc gia". Đồng thời, tại điểm d khoản 3 Điều 9, Luật Công đoàn năm 2024 cũng xác định Công đoàn là đại diện cấp quốc gia của người lao động tham gia các diễn đàn quốc tế; tham gia hoạt động, gia nhập hoặc rút khỏi tổ chức Công đoàn quốc tế.
Việc quy định cụ thể hơn về hệ thống tổ chức và vai trò đại diện của Công đoàn Việt Nam giúp củng cố sự thống nhất trong hoạt động Công đoàn, đồng thời đảm bảo Công đoàn có đủ thẩm quyền và vị thế để thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người lao động trong bối cảnh kinh tế - xã hội ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng.
Thứ tư, quy định về quyền giám sát, phản biện xã hội của Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2012 quy định Công đoàn có quyền “tham gia, phối hợp” với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy quy định này chưa phản ánh đầy đủ vai trò và tư cách của Công đoàn trong hoạt động giám sát, cũng như chưa làm rõ tính chất giám sát mang tính xã hội của tổ chức này.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền giám sát của Công đoàn. Đặc biệt, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xác định các tổ chức chính trị - xã hội có quyền “chủ trì giám sát” đối với những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Tương tự, khoản 4 Điều 88 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 quy định Công đoàn các cấp có trách nhiệm "thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên Công đoàn". Ngoài ra, Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong việc chủ trì giám sát thực hiện chính sách, pháp luật.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và để đảm bảo quyền giám sát của Công đoàn được thực thi hiệu quả, Luật Công đoàn năm 2024 đã quy định rõ về giám sát của Công đoàn (Điều 16). Theo đó, giám sát của Công đoàn bao gồm hai hình thức: Tham gia giám sát cùng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ trì giám sát. Đồng thời, luật cũng quy định rõ nguyên tắc, nội dung, hình thức, phạm vi, quyền và trách nhiệm của Công đoàn khi thực hiện quyền chủ trì giám sát. Việc bổ sung quy định này giúp Công đoàn phát hiện sớm các vi phạm tại đơn vị sử dụng lao động, thực hiện tốt vai trò đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo sự thống nhất với các chủ trương của Đảng, hệ thống pháp luật hiện hành và phù hợp với thực tiễn hoạt động Công đoàn trong bối cảnh mới, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung quy định về phản biện xã hội tại Điều 17. Việc quy định rõ ràng hơn về quyền và trách nhiệm phản biện xã hội giúp Công đoàn phát huy tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách.
Thứ năm, quy định chi tiết các hành vi bị nghiêm cấm
Luật Công đoàn năm 2012 khái quát 4 nhóm hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động Công đoàn, chủ yếu tập trung vào việc cấm cản trở, gây khó khăn đối với quyền Công đoàn, phân biệt đối xử với người lao động và lợi dụng quyền Công đoàn để vi phạm pháp luật (Điuề 9). Hiện nay, Luật Công đoàn năm 2024 quy định rõ ràng, chi tiết, liệt kê rõ từng hành vi bị cấm, đặc biệt là những hành vi phân biệt đối xử với người lao động và cán bộ Công đoàn (Điều 10). Cụ thể, Luật Công đoàn năm 2024 không chỉ cấm việc ép buộc tham gia hoặc rời khỏi Công đoàn mà còn nghiêm cấm sa thải, kỷ luật, điều chuyển công việc, chèn ép về tiền lương, thưởng, phúc lợi, hay thậm chí là kỳ thị về giới tính, tôn giáo, dân tộc.
Ngoài ra, so với tước đây, Điều 10 Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung thêm các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thao túng Công đoàn, can thiệp vào quá trình thành lập và hoạt động Công đoàn nhằm làm suy yếu tổ chức này. Đồng thời, quy định rõ ràng về nghĩa vụ tài chính, cấm không đóng, chậm đóng hoặc đóng sai mức kinh phí Công đoàn, cũng như việc quản lý tài chính không minh bạch. Ngoài ra, còn cấm Công đoàn nhận viện trợ, tài trợ trái pháp luật, đảm bảo tính độc lập và minh bạch của tổ chức này.
Như vậy, Luật Công đoàn năm 2024 cụ thể hóa và mở rộng hơn rất nhiều, giúp nâng cao hiệu quả thực thi và tăng cường bảo vệ quyền lợi của người lao động. Những bổ sung này cho thấy sự tiến bộ của Luật Công đoàn năm 2024 trong việc ngăn chặn sự can thiệp, thao túng Công đoàn, đảm bảo Công đoàn hoạt động độc lập và thực sự là tổ chức đại diện cho người lao động.
Thứ sáu, quy định chi tiết hơn về tài chính Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 có những sửa đổi quan trọng về tài chính Công đoàn nhằm tăng cường tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính. Theo Luật Công đoàn năm 2012, tài chính Công đoàn bao gồm các nguồn thu chính như đoàn phí do đoàn viên đóng, kinh phí Công đoàn do doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ và các nguồn thu khác từ hoạt động của Công đoàn. Tuy nhiên, quy định này đã gây ra nhiều tranh cãi, đặc biệt là nghĩa vụ đóng kinh phí Công đoàn đối với doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 vẫn duy trì mức đóng 2% nhưng có nhiều thay đổi đáng chú (Điều 29). Trước hết, bổ sung cơ chế miễn, giảm hoặc tạm dừng đóng kinh phí Công đoàn đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính hoặc đang trong quá trình giải thể, phá sản (Điều 30). Việc này giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế biến động
Một điểm mới quan trọng khác đó là quy định về Kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát tài chính Công đoàn nhằm tăng cường minh bạch, tránh lạm dụng trong quản lý tài chính Công đoàn (Điều 33). Trong đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam định kỳ báo cáo Quốc hội về tình hình thu, chi, sử dụng tài chính Công đoàn. Đồng thời, Kiểm toán Nhà nước sẽ thực hiện kiểm định kỳ và kiểm toán đột xuất theo yêu cầu của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các quy định này giúp hệ thống Công đoàn hoạt động hiệu quả hơn, tăng trách nhiệm giải trình và giảm áp lực tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo nguồn lực để bảo vệ quyền lợi người lao động.
Thứ bảy, quy định cụ thể hơn quyền, trách nhiệm đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn và người lao động.
Luật Công đoàn năm 2024 đã có những quy định mới nhằm làm rõ hơn quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn và người lao động. Trước đây, Công đoàn thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ người lao động dựa trên cơ sở pháp lý tại Điều 10 của Luật Công đoàn năm 2012. Tuy nhiên, với sự công nhận nhiều tổ chức đại diện người lao động theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019, quy định này cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn mới. Vì vậy, Luật Công đoàn năm 2024 đã bổ sung, làm rõ quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong các hoạt động quan trọng như: Đại diện người lao động thương lượng tập thể, ký kết và giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể; đối thoại với người sử dụng lao động; tham gia xây dựng và giám sát chính sách về tiền lương, thưởng, nội quy lao động; hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động theo quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung thêm một số quy định quyền và trách nhiệm của Công đoàn nhằm đảm bảo sự thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Cụ thể:
- Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và là thành viên của các ủy ban, hội đồng quốc gia có liên quan đến quyền lợi của người lao động cũng như quyền, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn (khoản 1 Điều 11).
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên và người lao động, thông qua các hoạt động hỗ trợ khi ốm đau, thai sản, khó khăn hoặc tổ chức các chương trình nâng cao đời sống văn hóa (khoản 8 Điều 11).
- Đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng kỹ thuật phục vụ người lao động, giúp nâng cao điều kiện sống và làm việc của đoàn viên Công đoàn (khoản 11 Điều 11).
- Thực hiện và thúc đẩy bình đẳng giới, đảm bảo các chính sách đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động không có sự phân biệt đối xử (khoản 12 Điều 11).
- Chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân tại cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện dân chủ ở cơ sở theo đúng quy định pháp luật (khoản 13 Điều 11).
- Quản lý, hướng dẫn mạng lưới an toàn, vệ sinh viên, tham gia điều tra tai nạn lao động, góp phần đảm bảo an toàn lao động cho người lao động (khoản 14 Điều 11).
Thứ tám, quy định về quyền của đoàn viên Công đoàn
So với trước đây, Luật Công đoàn năm 2024 có điểm mới quan trọng nhằm mở rộng quyền lợi của đoàn viên Công đoàn. Số lượng quyền được quy định tăng từ 7 lên 12, trong đó một số quyền được tách riêng để làm rõ nội dung, giúp đoàn viên dễ tiếp cận và thực hiện.
Bên cạnh đó, Điều 21 Luật Công đoàn năm 2024 quy định thêm thêm một số quyền mới của đoàn viên Công đoàn: Được thụ hưởng chính sách thuê nhà ở xã hội do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; được tuyên dương, khen thưởng khi có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất và hoạt động Công đoàn; được hỗ trợ pháp lý không chỉ trong lĩnh vực lao động, Công đoàn mà còn mở rộng sang bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn vệ sinh lao động. Ngoài ra, quyền đề xuất, kiến nghị về chế độ, chính sách cũng được mở rộng phạm vi, áp dụng cho cả hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bên cạnh các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp như trước đây. Những sửa đổi này không chỉ nâng cao vai trò bảo vệ quyền lợi của Công đoàn mà còn tạo động lực để đoàn viên tích cực tham gia vào các hoạt động, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh.
Luật Công đoàn năm 2024 không chỉ hoàn thiện khung pháp lý mà còn củng cố vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho đoàn viên, người lao động. Với những đổi mới quan trọng này, Luật Công đoàn năm 2024 tạo cơ sở pháp lý để Công đoàn hoạt động hiệu quả hơn, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định trong tương lai./.
Ngày 27/11/2024, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Công đoàn năm 2024. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025. Luật Công đoàn năm 2024 có 6 chương, 37 điều (tăng 4 điều so với Luật hiện hành) với một số điểm mới nổi bật như sau:
Thứ nhất, mở rộng quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2012 quy định: "Người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn". Nội dung này, Điều 5 Luật Công đoàn năm 2024 quy định như sau:
1. Người lao động Việt Nam có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn.
2. Người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên được gia nhập và hoạt động Công đoàn tại Công đoàn cơ sở.
Luật Công đoàn năm 2024 có sự thay đổi quan trọng khi mở rộng quyền gia nhập Công đoàn cho người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam theo hợp đồng lao động từ đủ 12 tháng trở lên. Trước đây, theo Luật Công đoàn năm 2012, chỉ công dân Việt Nam mới có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn, điều này hạn chế khả năng bảo vệ quyền lợi của lao động nước ngoài. Việc bổ sung quy định này giúp hệ thống Công đoàn bao quát hơn, đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Cụ thể, Điều 6 Luật Công đoàn năm 2024 quy định: Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp mà tự nguyện, tán thành Điều lệ Công đoàn Việt Nam thì có quyền gia nhập Công đoàn Việt Nam. Quy định này này nhằm tăng cường vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam, đảm bảo phù hợp sự phù hợp với nội dung của Bộ luật Lao động 2019.
Việc mở rộng quyền thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn có nhiều ý nghĩa quan trọng. Trước hết, quy định này giúp người lao động là công dân nước ngoài có thêm công cụ pháp lý để bảo vệ quyền lợi, tham gia thương lượng tập thể và giải quyết tranh chấp lao động. Đồng thời, quy định mới thể hiện cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA. Ngoài ra, người lao động Việt Nam và người lao động là công dân nước ngoài cùng được gia nhập và hoạt động Công đoàn sẽ tạo ra môi trường lao động bình đẳng, hài hòa, giúp doanh nghiệp và người lao động có tiếng nói chung trong thương lượng và giải quyết tranh chấp. Việc mở rộng đối tượng tham gia Công đoàn không chỉ tăng cường bảo vệ quyền lợi người lao động mà còn góp phần nâng cao vị thế của tổ chức Công đoàn Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu.
Thứ hai, bổ sung nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam, đồng thời làm rõ nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế về Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 kế thừa các nguyên tắc cốt lõi về tổ chức và hoạt động trong Luật Công đoàn năm 2012, đồng thời có những bổ sung quan trọng. Cụ thể, khoản 1 Điều 7 quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam là “hợp tác, phối hợp với người sử dụng lao động, đồng thời bảo đảm tính độc lập của tổ chức Công đoàn” nhằm phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Đây là một nguyên tắc quan trọng, giúp Công đoàn thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 quy định cụ thể hơn hơn nguyên tắc và nội dung hợp tác quốc tế về Công đoàn, được quy định tại Điều 9, nhằm tăng cường sự hội nhập và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thứ ba, quy định cụ thể hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam (Điều 8)
Trước đây, Luật Công đoàn năm 2012 quy định: Hệ thống tổ chức Công đoàn gồm có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Luật Công đoàn năm 2024 tiếp tục thực hiện chỉ đạo tại Nghị quyết 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về đổi mới tổ chức hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới, trong đó có nội dung tiếp tục nâng cao hiệu quả mô hình tổ chức Công đoàn 4 cấp. Theo đó, Điều 8 Luật Công đoàn năm 2024 quy định rõ ràng hơn về hệ thống tổ chức của Công đoàn, cụ thể như sau:
Công đoàn Việt Nam là tổ chức thống nhất bao gồm 4 cấp sau đây:
a) Cấp trung ương là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
b) Công đoàn cấp tỉnh, ngành trung ương và tương đương bao gồm liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là liên đoàn lao động cấp tỉnh); Công đoàn ngành trung ương; Công đoàn tập đoàn kinh tế, Công đoàn tổng công ty trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
c) Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở bao gồm liên đoàn lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là liên đoàn lao động cấp huyện); Công đoàn ngành địa phương; Công đoàn tập đoàn kinh tế, Công đoàn tổng công ty không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản này; Công đoàn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam;
d) Công đoàn cấp cơ sở bao gồm Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn cơ sở.
Ngoài ra, Luật Công đoàn năm 2024 tiếp tục khẳng định vai trò duy nhất của Công đoàn Việt Nam trong việc đại diện người lao động ở cấp quốc gia. Cụ thể, tại khoản 1 Điều 11, luật nêu rõ "Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện người lao động trong quan hệ lao động ở cấp quốc gia". Đồng thời, tại điểm d khoản 3 Điều 9, Luật Công đoàn năm 2024 cũng xác định Công đoàn là đại diện cấp quốc gia của người lao động tham gia các diễn đàn quốc tế; tham gia hoạt động, gia nhập hoặc rút khỏi tổ chức Công đoàn quốc tế.
Việc quy định cụ thể hơn về hệ thống tổ chức và vai trò đại diện của Công đoàn Việt Nam giúp củng cố sự thống nhất trong hoạt động Công đoàn, đồng thời đảm bảo Công đoàn có đủ thẩm quyền và vị thế để thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người lao động trong bối cảnh kinh tế - xã hội ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng.
Thứ tư, quy định về quyền giám sát, phản biện xã hội của Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2012 quy định Công đoàn có quyền “tham gia, phối hợp” với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cho thấy quy định này chưa phản ánh đầy đủ vai trò và tư cách của Công đoàn trong hoạt động giám sát, cũng như chưa làm rõ tính chất giám sát mang tính xã hội của tổ chức này.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền giám sát của Công đoàn. Đặc biệt, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xác định các tổ chức chính trị - xã hội có quyền “chủ trì giám sát” đối với những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên. Tương tự, khoản 4 Điều 88 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 quy định Công đoàn các cấp có trách nhiệm "thực hiện giám sát và phản biện xã hội đối với việc thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của đoàn viên Công đoàn". Ngoài ra, Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong việc chủ trì giám sát thực hiện chính sách, pháp luật.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và để đảm bảo quyền giám sát của Công đoàn được thực thi hiệu quả, Luật Công đoàn năm 2024 đã quy định rõ về giám sát của Công đoàn (Điều 16). Theo đó, giám sát của Công đoàn bao gồm hai hình thức: Tham gia giám sát cùng cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chủ trì giám sát. Đồng thời, luật cũng quy định rõ nguyên tắc, nội dung, hình thức, phạm vi, quyền và trách nhiệm của Công đoàn khi thực hiện quyền chủ trì giám sát. Việc bổ sung quy định này giúp Công đoàn phát hiện sớm các vi phạm tại đơn vị sử dụng lao động, thực hiện tốt vai trò đại diện và bảo vệ quyền lợi của người lao động trong quan hệ lao động.
Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo sự thống nhất với các chủ trương của Đảng, hệ thống pháp luật hiện hành và phù hợp với thực tiễn hoạt động Công đoàn trong bối cảnh mới, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung quy định về phản biện xã hội tại Điều 17. Việc quy định rõ ràng hơn về quyền và trách nhiệm phản biện xã hội giúp Công đoàn phát huy tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách.
Thứ năm, quy định chi tiết các hành vi bị nghiêm cấm
Luật Công đoàn năm 2012 khái quát 4 nhóm hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động Công đoàn, chủ yếu tập trung vào việc cấm cản trở, gây khó khăn đối với quyền Công đoàn, phân biệt đối xử với người lao động và lợi dụng quyền Công đoàn để vi phạm pháp luật (Điuề 9). Hiện nay, Luật Công đoàn năm 2024 quy định rõ ràng, chi tiết, liệt kê rõ từng hành vi bị cấm, đặc biệt là những hành vi phân biệt đối xử với người lao động và cán bộ Công đoàn (Điều 10). Cụ thể, Luật Công đoàn năm 2024 không chỉ cấm việc ép buộc tham gia hoặc rời khỏi Công đoàn mà còn nghiêm cấm sa thải, kỷ luật, điều chuyển công việc, chèn ép về tiền lương, thưởng, phúc lợi, hay thậm chí là kỳ thị về giới tính, tôn giáo, dân tộc.
Ngoài ra, so với tước đây, Điều 10 Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung thêm các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thao túng Công đoàn, can thiệp vào quá trình thành lập và hoạt động Công đoàn nhằm làm suy yếu tổ chức này. Đồng thời, quy định rõ ràng về nghĩa vụ tài chính, cấm không đóng, chậm đóng hoặc đóng sai mức kinh phí Công đoàn, cũng như việc quản lý tài chính không minh bạch. Ngoài ra, còn cấm Công đoàn nhận viện trợ, tài trợ trái pháp luật, đảm bảo tính độc lập và minh bạch của tổ chức này.
Như vậy, Luật Công đoàn năm 2024 cụ thể hóa và mở rộng hơn rất nhiều, giúp nâng cao hiệu quả thực thi và tăng cường bảo vệ quyền lợi của người lao động. Những bổ sung này cho thấy sự tiến bộ của Luật Công đoàn năm 2024 trong việc ngăn chặn sự can thiệp, thao túng Công đoàn, đảm bảo Công đoàn hoạt động độc lập và thực sự là tổ chức đại diện cho người lao động.
Thứ sáu, quy định chi tiết hơn về tài chính Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 có những sửa đổi quan trọng về tài chính Công đoàn nhằm tăng cường tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính. Theo Luật Công đoàn năm 2012, tài chính Công đoàn bao gồm các nguồn thu chính như đoàn phí do đoàn viên đóng, kinh phí Công đoàn do doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ và các nguồn thu khác từ hoạt động của Công đoàn. Tuy nhiên, quy định này đã gây ra nhiều tranh cãi, đặc biệt là nghĩa vụ đóng kinh phí Công đoàn đối với doanh nghiệp chưa có tổ chức Công đoàn.
Luật Công đoàn năm 2024 vẫn duy trì mức đóng 2% nhưng có nhiều thay đổi đáng chú (Điều 29). Trước hết, bổ sung cơ chế miễn, giảm hoặc tạm dừng đóng kinh phí Công đoàn đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính hoặc đang trong quá trình giải thể, phá sản (Điều 30). Việc này giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế biến động
Một điểm mới quan trọng khác đó là quy định về Kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát tài chính Công đoàn nhằm tăng cường minh bạch, tránh lạm dụng trong quản lý tài chính Công đoàn (Điều 33). Trong đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam định kỳ báo cáo Quốc hội về tình hình thu, chi, sử dụng tài chính Công đoàn. Đồng thời, Kiểm toán Nhà nước sẽ thực hiện kiểm định kỳ và kiểm toán đột xuất theo yêu cầu của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các quy định này giúp hệ thống Công đoàn hoạt động hiệu quả hơn, tăng trách nhiệm giải trình và giảm áp lực tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo nguồn lực để bảo vệ quyền lợi người lao động.
Thứ bảy, quy định cụ thể hơn quyền, trách nhiệm đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn và người lao động.
Luật Công đoàn năm 2024 đã có những quy định mới nhằm làm rõ hơn quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong việc đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên Công đoàn và người lao động. Trước đây, Công đoàn thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ người lao động dựa trên cơ sở pháp lý tại Điều 10 của Luật Công đoàn năm 2012. Tuy nhiên, với sự công nhận nhiều tổ chức đại diện người lao động theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019, quy định này cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn mới. Vì vậy, Luật Công đoàn năm 2024 đã bổ sung, làm rõ quyền và trách nhiệm của Công đoàn trong các hoạt động quan trọng như: Đại diện người lao động thương lượng tập thể, ký kết và giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể; đối thoại với người sử dụng lao động; tham gia xây dựng và giám sát chính sách về tiền lương, thưởng, nội quy lao động; hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động theo quy định pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật Công đoàn năm 2024 bổ sung thêm một số quy định quyền và trách nhiệm của Công đoàn nhằm đảm bảo sự thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Cụ thể:
- Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và là thành viên của các ủy ban, hội đồng quốc gia có liên quan đến quyền lợi của người lao động cũng như quyền, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn (khoản 1 Điều 11).
- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên và người lao động, thông qua các hoạt động hỗ trợ khi ốm đau, thai sản, khó khăn hoặc tổ chức các chương trình nâng cao đời sống văn hóa (khoản 8 Điều 11).
- Đầu tư xây dựng nhà ở xã hội, công trình văn hóa, thể thao, hạ tầng kỹ thuật phục vụ người lao động, giúp nâng cao điều kiện sống và làm việc của đoàn viên Công đoàn (khoản 11 Điều 11).
- Thực hiện và thúc đẩy bình đẳng giới, đảm bảo các chính sách đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của người lao động không có sự phân biệt đối xử (khoản 12 Điều 11).
- Chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân tại cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước nhằm thực hiện dân chủ ở cơ sở theo đúng quy định pháp luật (khoản 13 Điều 11).
- Quản lý, hướng dẫn mạng lưới an toàn, vệ sinh viên, tham gia điều tra tai nạn lao động, góp phần đảm bảo an toàn lao động cho người lao động (khoản 14 Điều 11).
Thứ tám, quy định về quyền của đoàn viên Công đoàn
So với trước đây, Luật Công đoàn năm 2024 có điểm mới quan trọng nhằm mở rộng quyền lợi của đoàn viên Công đoàn. Số lượng quyền được quy định tăng từ 7 lên 12, trong đó một số quyền được tách riêng để làm rõ nội dung, giúp đoàn viên dễ tiếp cận và thực hiện.
Bên cạnh đó, Điều 21 Luật Công đoàn năm 2024 quy định thêm thêm một số quyền mới của đoàn viên Công đoàn: Được thụ hưởng chính sách thuê nhà ở xã hội do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; được tuyên dương, khen thưởng khi có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất và hoạt động Công đoàn; được hỗ trợ pháp lý không chỉ trong lĩnh vực lao động, Công đoàn mà còn mở rộng sang bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an toàn vệ sinh lao động. Ngoài ra, quyền đề xuất, kiến nghị về chế độ, chính sách cũng được mở rộng phạm vi, áp dụng cho cả hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bên cạnh các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp như trước đây. Những sửa đổi này không chỉ nâng cao vai trò bảo vệ quyền lợi của Công đoàn mà còn tạo động lực để đoàn viên tích cực tham gia vào các hoạt động, góp phần xây dựng tổ chức Công đoàn ngày càng vững mạnh.
Luật Công đoàn năm 2024 không chỉ hoàn thiện khung pháp lý mà còn củng cố vai trò của tổ chức Công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho đoàn viên, người lao động. Với những đổi mới quan trọng này, Luật Công đoàn năm 2024 tạo cơ sở pháp lý để Công đoàn hoạt động hiệu quả hơn, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định trong tương lai./.