Phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học Ngành luật
- Thứ hai - 05/03/2018 16:36
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Phương pháp trực quan nằm trong hệ thống các phương pháp dạy học, là một phương pháp giảng dạy cơ bản của các cơ sở đào tạo. Từ việc làm rõ khái niệm, phân loại, ưu nhược điểm và các yêu cầu khi thực hiện của phương pháp trực quan trong giảng dạy, chúng ta thấy được đây là phương pháp hiệu quả và phù hợp với đối tượng học chuyên ngành Luật nếu phương pháp này được sử dụng một cách triệt để và hợp lý, góp phần vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo.
Phương pháp trực quan là cầu nối giữa lý thuyết và thực hành, là sự phản ánh khách quan, chân thực nhất về những kiến thức lý thuyết, phát huy tính tích cực, chủ động học tập của sinh viên. Những phương tiện trực quan có tác dụng giúp sinh viên dễ dàng tiếp nhận tri thức mới, thông qua đó, sinh viên hứng thú học tập hơn, tạo sự tò mò, say mê nghiên cứu. Sử dụng phương tiện trực quan giúp sinh viên hiểu rõ các khái niệm, đặc điểm, quy trình, thủ tục và thao tác trong từng môn học cụ thể, trang bị những kiến thức cần thiết và xây dựng kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, cần thiết cho sinh viên sau này.
Những môn học ngành Luật đặc thù là những môn học khoa học xã hội, nặng về lý thuyết, hàn lâm. Tuy nhiên trong xã hội hiện nay, yêu cầu chung đối với các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật không chỉ truyền đạt kiến thức lý thuyết mà còn thực hiện tôn chỉ “cầm tay chỉ việc”, không chỉ cung cấp kiến thức lý luận mà còn rèn luyện kỹ năng thực hành nghề nghiệp và có thể vận dụng tối đa ngay khi tiếp cận với công việc. Muốn làm được điều đó thì ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, sinh viên phải được tiếp cận với thực tiễn trong từng bài học.
Nắm bắt được yêu cầu chung đó, hầu hết các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hiện nay đã áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy nhưng việc áp dụng về cách thức, mức độ và tính hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo là khác nhau. Hiện nay việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy chưa được áp dụng triệt để, chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Việc giảng dạy một số môn học vẫn còn mang tính cung cấp kiến thức một chiều, mang nặng tính lý thuyết, phương pháp trực quan chưa được áp dụng hoặc áp dụng nhưng chưa đưa lại hiệu quả thực sự. Sinh viên vẫn chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế thông qua các giờ học áp dụng phương pháp trực quan. Vì vậy chưa thể đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của các trường.
Một thực trạng mà chúng ta không thể phủ nhận đó là việc sinh viên khi ra trường còn thiếu các kỹ năng cần thiết của nghề nghiệp, bỡ ngỡ với thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động.
Xuất phát từ thực trạng trên và tầm quan trọng của việc áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật, bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về phương pháp trực quan, cách thức thực hiện và giải pháp để nâng cao chất lượng việc áp dụng phương pháp này trên thực tế.
1. Những vấn đề chung về phương pháp trực quan
1.1. Khái niệm phương pháp trực quan
Trước đây, một giờ dạy học được xem như là một buổi “biểu diễn nghệ thuật” của giảng viên. Vai trò chủ thể của sinh viên chưa được phát huy, các đồ dùng minh họa cho bài học còn hạn chế. Sinh viên là người bị động tiếp thu kiến thức còn giảng viên đóng là người truyền thụ kiến thức. Hiện nay, với việc đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò chủ thể của sinh viên ngày càng được phát huy. Giờ dạy học không còn là “buổi biểu diễn nghệ thuật” của giảng viên nữa và việc vận dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học đã được chú trọng.
Bàn về phương pháp trực quan trong giảng dạy đã có rất nhiều học thuyết nói đến, đầu tiên thuật ngữ được sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai nhất của Xôcrat và Khổng Tử để con người nhận thức được thế giới. Bởi lẽ theo họ “thế giới hòa tan trong ta và con người có thể nhận thức chính bản thân họ”. Mối quan tâm của Khổng Tử đó là tri thức kinh nghiệm không có sẵn trong mỗi con người, nó được hình thành trong mỗi con người thông qua học tập. Ông khẳng định: “Tính người ta vốn gần nhau”, Khổng Tử rất coi trọng nhận thức cảm tính, con người nhận thức được thế giới phải dựa vào kết quả quan sát các sự vật trực quan và hai ông đã rút ra được nội dung dạy học cho mình trong quá trình giảng dạy. Từ đó “phương pháp trực quan gắn liền với dạy học”. [1]
Đầu thế kỉ XVII, nhà giáo dục nổi tiếng người Tiệp Khắc J.A. Kômenski (1592 - 1670) đã đưa ra nguyên tắc dạy học, lý luận dạy học và phương pháp dạy học của quá trình nhận thức. Ông cho rằng: “Kiến thức càng dựa vào cảm giác thì nó càng xác thực. Nghiên cứu sự vật không chỉ dựa vào cái mà người khác quan sát, chứng minh mà phải căn cứ vào những cái chính mắt mình nhìn, chính tai mình nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm, chính tay mình sờ, … Nguyên tắc này giúp sinh viên bằng kinh nghiệm của bản thân mình thấy được tri thức cụ thể, làm nền tảng cho tư duy. Tính cụ thể ấy buộc giảng viên phải minh họa bằng những sự vật có thật trong cuộc sống, bằng những tranh ảnh, mô hình, các tình huống thực tiễn … bằng cách mô tả rõ ràng chi tiết để gợi lại cho sinh viên nhớ lại những cái đã học hoặc tưởng tượng những cái chưa hề thấy.
Như vậy, phương pháp trực quan trong giảng dạy được hiểu là phương pháp dạy học sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
1.2. Phân loại phương pháp trực quan
Có thể chia phương pháp trực quan thành phương pháp trình bày trực quan và phương pháp quan sát.
Phương pháp trình bày trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới trong khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Có hai hình thức thể hiện phương pháp trình bày trực quan đó là: hình thức minh họa và hình thức trình bày. Trong đó, hình thức minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa. Hình thức trình bày thường gắn với việc trình bày những thí nghiệm, những thiết bị kỹ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm là trình bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận về mặt sư phạm.
Phương pháp quan sát là sự tri giác có chủ đích, có kế hoạch tạo khả năng theo dõi tiến trình và sự biến đổi diễn ra trong đối tượng quan sát. Quan sát là hình thức cảm tính tích cực nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những biểu tượng ban đầu về đối tượng của thế giới xung quanh. Quan sát gắn chặt với tư duy.
Dựa vào những căn cứ khác nhau, có thể phân ra thành các phương pháp quan sát sau:
- Căn cứ vào cách thức quan sát có thể phân ra quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp.
- Căn cứ vào thời gian quan sát có thể phân ra quan sát ngắn hạn, quan sát dài hạn.
- Căn cứ vào phạm vi quan sát có thể phân ra quan sát toàn diện, quan sát khía cạnh.
- Căn cứ vào mức độ tổ chức quan sát có thể phân ra quan sát tự nhiên và quan sát có bố trí, sắp xếp.
1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trực quan
Thứ nhất, về ưu điểm, sử dụng tốt phương pháp trực quan sẽ phát huy được vai trò quan trọng sau đây:
- Phương pháp trực quan làm cho các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học trở thành những nguồn tri thức quan trọng. Ví dụ: các giấy tờ, biểu mẫu; các bản hợp đồng mẫu; các văn bản hành chính… được sử dụng làm đồ dùng trực quan trong từng môn học cụ thể để sinh viên quan sát và rút ra được những đặc điểm phân biệt và tiến hành các thao tác trên đó. Vai trò này chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để khẳng định những khái niệm, đặc điểm, kết luận và còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên.
- Giúp sinh viên huy động sự tham gia của nhiều giác quan trong quá trình học, kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu, nhớ chính xác hơn và vận dụng kiến thức linh hoạt hơn, gây hứng thú làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học, qua đó phát huy được tính tích cực chủ động học tập cho sinh viên.
- Giúp sinh viên hiểu sâu sắc bản chất của vấn đề mà giảng viên đưa ra và giải quyết tốt vấn đề, là phương tiện rất hữu hiệu để hình thành các khái niệm trong quá trình ghi nhớ và hiểu, từ đó giúp sinh viên, sinh viên nắm vững các quy luật của vấn đề làm nền tảng kiến thức và tạo ra phương pháp tư duy logic để học tốt các môn tiếp theo.
- Phương pháp này còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của sinh viên, sinh viên đặc biệt là đối với các lưu sinh viên quốc tế. Bên cạnh đó, thông qua các hình ảnh trực quan có tác dụng hình thành và hoàn thiện những phẩm chất đạo đức, cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm của sinh viên.
- Phương pháp này giúp sinh viên gần hơn với kiến thức thực tế. Thông qua đó sinh viên có thể biết cách vận dụng những kiến thức lý thuyết vào thực hành, nhận biết và áp dụng thực hiện được cho công việc sau này.
Thứ hai, về nhược điểm,
Phương pháp trực quan đòi hỏi nhiều thời gian, giảng viên cần tính toán kĩ để phù hợp với thời lượng đã quy định của một giờ học.
Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không hợp lý sẽ làm phân tán chú ý của sinh viên, dẫn đến sinh viên không lĩnh hội được những nội dung chính của bài học.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là khi quan sát tranh ảnh, các phim điện ảnh, phim video, nếu giảng viên không định hướng cho sinh viên quan sát sẽ dễ dẫn đến tình trạng sinh viên sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng.
2. Phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
2.1. Đặc thù của giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
- Các môn học chuyên ngành Luật thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, là những môn học mang tính hàn lâm cao, nặng về lý thuyết.
- Các môn học chuyên ngành Luật với những nội dung quy định pháp luật gắn liền với thực tiễn đời sống hàng ngày. Mục tiêu của các môn học chuyên ngành Luật là trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản, những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết về một số ngành luật và quan trọng hơn là tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến với sinh viên để sinh viên có thể ứng xử theo pháp luật trong mọi tình huống xảy ra trong quá trình học tập, lao động của mình.
- Chính vì đặc thù của các môn học chuyên ngành Luật như vậy, đặt ra một vấn đề cho công tác giảng dạy các môn học này đó là giảng dạy phải gắn với thực tiễn, “cầm tay chỉ việc”, đáp ứng được yêu cầu công việc sau khi ra trường của sinh viên.
Chính vì những lẽ đó, việc áp dụng giảng dạy phương pháp trực quan trong các môn học chuyên ngành Luật là rất cần thiết.
2.2. Các dạng công cụ, phương tiện trực quan chủ yếu đối với các môn học chuyên ngành Luật
Đối với các môn học chuyên ngành Luật, giảng viên có thể sử dụng các dạng công cụ, phương tiện trực quan cụ thể như sau:
- Các công cụ trực quan như: Hình ảnh , giáo án điện tử, hồ sơ tình huống pháp luật (bao gồm tình huống do giảng viên xây dựng, tình huống do giảng viên sưu tầm được hoặc tình huống giả định do sinh viên đóng vai...), hồ sơ, biểu mẫu ban hành kèm theo các quyết định pháp luật, các mô hình diễn án (trong Luật Tố tụng Dân sự, tố tụng Hình sự, tố tụng Hành chính),...
Ví dụ:
+ Môn Luật Tố tụng Dân sự - Tố tụng Hình sự: Giảng viên có thể sưu tầm, biên soạn những hình ảnh minh họa, mô phỏng các hoạt động liên quan đến hoạt động tố tụng như: hình ảnh các phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, hình sự; các phiên hòa giải trong dân sự...; xây dựng bộ hồ sơ tình huống pháp luật mang tính điển hình; trực tiếp tổ chức cho sinh viên thực hành các phiên tòa giả định;...
+ Môn Luật Lao động: Các hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; quyết định xử lý kỷ luật lao động; nội quy lao động; các hồ sơ tình huống về tranh chấp lao động (do giảng viên tự xây dựng hoặc sưu tầm); hồ sơ các vụ án lao động trên thực tế;...
+ Môn Luật Thương mại: Mẫu hợp đồng thương mại; mẫu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; hồ sơ tình huống về tranh chấp thương mại; hồ sơ các vụ án thương mại trên thực tế;...
+ Môn Luật Hình sự : Hình ảnh về các hành vi phạm tội trên thực tế hoặc về các vụ án hình sự điển hình; hồ sơ các vụ án hình sự trên thực tế; các tình huống về vụ án hình sự do giảng viên xây dựng;...
- Các phương tiện trực quan như: máy tính, máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đèn chiếu, camera,…
2.3. Thực hiện phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
Tùy theo đặc thù của môn học và nội dung của bài học mà giảng viên lựa chọn phương pháp trực quan phù hợp để giảng dạy. Trình tự tổ chức giảng dạy theo phương pháp trực quan có thể được khái quát qua các bước sau:
- Bước 1: Giảng viên lựa chọn, cung cấp những đồ dùng, phương tiện trực quan và định hướng cho sự quan sát, nghiên cứu của sinh viên.
Ví dụ: Đối với môn học Luật Dân sự, khi giảng dạy bài học về hợp đồng dân sự, giảng viên có thể cung cấp cho sinh viên các bản hợp đồng thực tế như hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động…
Đối với môn học Luật Thương mại, khi giảng dạy pháp luật về doanh nghiệp, trong đó có nội dung về thủ tục đăng ký doanh nghiệp, giảng viên có thể cung cấp mẫu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, một số điều lệ của các doanh nghiệp trên thực tế…
Đối với môn học Luật Tố tụng dân sự, giáo viên có thể cung cấp các văn bản tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án dân sự; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Bản án của Tòa án….
Bên cạnh đó, giáo viên có thể cung cấp các video thực tiễn, các hồ sơ tình huống pháp lý thực tế gắn với môn học mà mình giảng dạy. Sau khi cung cấp các công cụ trực quan này, giảng viên nêu các yêu cầu cơ bản đối với sinh viên như: trình bày được những nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự, các quy định về hiệu lực của hợp đồng dân sự, yêu cầu về tính pháp lý và tính chính xác của các văn bản tố tụng, những nội dung chính của các video, hình ảnh được xem…
- Bước 2: Giảng viên phân tích và khai thác nội dung của phương tiện, công cụ trực quan đã cung cấp.
Sau khi cung cấp các phương tiện trực quan như đã trình bày ở bước 1, giảng viên phân tích các nội dung pháp lý liên quan đến các công cụ trực quan đã cung cấp như: nội dung của hợp đồng; tính chính xác và hợp pháp của các văn bản tố tụng; những nội dung cơ bản của video đã cung cấp… Việc khai thác các công cụ trực quan này nhằm thực hiện mục tiêu của bài học mà giảng viên muốn hướng đến.
- Bước 3: Giảng viên yêu cầu một số sinh viên trình bày, giải thích nội dung những gì thu nhận được qua các phương tiện, công cụ trực quan.
Sau khi cung cấp và phân tích, khai thác nội dung của các công cụ trực quan, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên trình bày khái quát các kiến thức tiếp thu được thông qua nghiên cứu, phân tích các công cụ trực quan được giảng viên cung cấp và thực hiện một số kỹ năng liên quan đến môn học.
- Bước 4: Giảng viên khái quát, kết luận về nội dung kiến thức và các kỹ năng mà sinh viên cần đạt được sau khi khai thác phương tiện trực quan.
* Ví dụ: Đối với các môn học Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự là những môn học gắn với thực tế cuộc sống, các tình huống thực tế vô cùng đa dạng. Do đó, thay vì giảng dạy theo các phương pháp truyền thống, giảng viên cần hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên làm quen, phân tích, đưa ra phương án đối với những tình huống này trên lớp thông qua hoạt động làm bài tập cá nhân hoặc nhóm, diễn án, xem các video về các phiên tòa thực tế... Đặc biệt, giảng viên tổ chức cho sinh viên đóng vai diễn các phiên tòa trên lớp và có hình thức kiểm tra chất lượng thông qua các bài viết thu hoạch. Ngoài ra, có thể tăng cường tổ chức các phiên tòa lưu động về các vụ án hình sự. Đây là phương pháp trực quan giúp sinh viên có góc nhìn sinh động, thực tế hơn sau những giờ lý thuyết trên lớp.
Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp dạy học trực quan, giảng viên có thể kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực khác như tổ chức trao đổi, thảo luận nhóm, xây dựng và xử lý tình huống pháp lý giả định…
2.4. Yêu cầu của việc sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật
Để phát huy được hết vai trò, tính tích cực của phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật, việc áp dụng phương pháp này cần thực đáp ứng được những yêu cầu sau đây: [2]
Thứ nhất, lựa chọn, chuẩn bị chu đáo, thận trọng về số lượng, chất lượng các công cụ, phương tiện trực quan sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học. Từ đó giải thích rõ mục đích trình bày những công cụ, phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng phù hợp với từng môn học Luật. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát cần dùng các thiết bị có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy luật cảm giác, tri giác.
Thứ hai, giảng viên cần nêu rõ yêu cầu và hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được từ dụng cụ, phương tiện trực quan đã cung cấp. Trên cơ sở đó giúp sinh viên rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt những kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác.
Thứ ba, bảo đảm cho tất cả sinh viên quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có thể thì phân phát các vật thật cho sinh viên và chỉ sử dụng những công cụ, phương tiện trực quan khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của sinh viên.
Thứ tư, đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của sinh viên.
Thứ năm, đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và phương tiện kỹ thuật dạy học.
3. Nâng cao hiệu quả áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật
Mỗi phương pháp giảng dạy đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, đối với phương pháp trực quan có ưu điểm là đem lại cho sinh viên những góc nhìn sinh động hơn về kiến thức môn học, tạo được sự hứng thú học tập đối với sinh viên và bước đầu trang bị được các kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu việc làm của sinh viên sau khi ra trường. Chính vì lẽ đó cần phải có những phương pháp nâng cao chất lượng của phương pháp này trên thực tế. Cụ thể như sau:
* Đối với công tác tổ chức
Lãnh đạo Trường và các Khoa chuyên môn cần chỉ đạo và quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có khuyến khích việc sử dụng phương pháp trực quan. Quan tâm đến các hoạt động nhằm ứng dụng có chất lượng, hiệu quả và phổ biến rộng rãi phương pháp này bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống khác: như tổ chức các hội thảo chuyên đề về phương pháp này, ứng dụng vào hoạt động dạy học thực tế các môn học tại Trường; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học các môn Luật..., tổ chức bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phần mềm máy tính, mô hình trực quan, khai thác thông tin trên mạng Internet vận dụng vào quá trình dạy học.
Có cơ chế hỗ trợ để giảng viên đi thực tế, tham gia các hoạt động tư vấn, hỗ trợ pháp lý để tích lũy kinh nghiệp thực tế phục vụ việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy.
* Đối với giảng viên
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của phương pháp trực quan đối với việc giảng dạy.
Thứ hai, nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn của giảng viên, đặc biệt là am hiểu thực tế và kỹ năng thực hành các nghiệp vụ đối với môn học mà mình phụ trách. Việc giảng viên tích lũy kinh nghiệm thực tiễn có thể thông qua nhiều con đường như cập nhật, nghiên cứu các tài liệu chuyên sâu liên quan đến môn học; hoạt động thực tế tại các cơ quan, tổ chức đang quản lý và thực hiện các hoạt động liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà mình phụ trách; tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc trên thực tế; tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học…
Thứ ba, nội dung các môn học ngành luật đều khác nhau nên các công cụ, phương tiện trực quan áp dụng đối với từng môn học cũng khác nhau. Do đó, để giảng viên chủ động và thuận tiện áp dụng các phương pháp trực quan, giảng viên phải tự xây dựng hồ sơ trực quan đối với môn học mà mình phụ trách. Hồ sơ trực quan sẽ bao gồm công cụ, phương tiện trực quan được áp dụng trong từng chương học cụ thể. Việc tự xây dựng này có thể thông qua việc nghiên cứu các sách báo, tài liệu pháp luật hoặc thông qua việc tiếp tục tham gia đi thực tế tại địa bàn.
Ví dụ: Giáo viên, giảng viên phụ trách môn học Luật Tố tụng Hình sự thì có thể dành thời gian tham gia đi thực tế tại các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; giảng viên phụ trách môn học Luật Lao động thì có thể tiếp tục tham gia đi thực tế tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp…
Ngoài ra, cần tăng cường sinh hoạt chuyên môn thường xuyên với các nội dung liên quan đến chuyên đề áp dụng phương áp trực quan vào giảng dạy, chia sẻ những kinh nghiệm, những ưu điểm và những mặt còn tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy; mời các chuyên gia, các giảng viên có kinh nghiệm, sử dụng phương pháp trực quan dạy học lâu năm để tập huấn, bồi dưỡng; tăng cường hoạt động dự giờ, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng phương pháp trực quan trong đội ngũ giảng viên.
Thứ tư, việc sử dụng phương pháp trực quan đòi hỏi giảng viên phải đầu tư nhiều về trí tuệ, công sức, tìm tòi và sáng tạo.Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của các công cụ, phương tiện trực quan cũng có hạn. Điều đó đòi hỏi bản thân giảng viên phải thật sự tâm huyết, chủ động trong việc tìm tòi, đổi mới hồ sơ trực quan của môn học mình; phải rèn luyện đức tính cần cù, chịu khó, yêu nghề, gắn bó với nghề... Có vậy, giảng viên mới đưa ra được những công cụ, phương tiện trực quan chất lượng, sát với yêu cầu của bài học cũng như sự thay đổi của pháp luật.
Thứ năm, khi áp dụng phương pháp trực quan trong dạy học các môn học ngành luật cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như:
- Phải đảm bảo tính khoa học sư phạm của các phương tiện trực quan.
- Hồ sơ trực quan phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu, kết quả cần đạt được của môn học. Phương tiện dạy học không chỉ đáp ứng nhu cầu hứng thú, sinh động trong giờ học mà còn phải nhằm hình thành kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên phù hợp với mục tiêu của bài học, tránh đưa vào những phương tiện trực quan mà nội dung của nó dài dòng hay trùng lặp (chẳng hạn như quá nhiều hình ảnh, phim ảnh trong một mục hay trong nội dung toàn bài học).
- Hồ sơ trực quan phải phù hợp với sinh viên. Trong đó, phải có sự phù hợp với năng lực nhận thức của sinh viên, nghĩa là các phương tiện trực quan phải chứa đựng những thông tin cần học và mức độ tư duy phù hợp với năng lực nhận thức của sinh viên. Đồng thời, khi áp dụng phương pháp trực quan cần đảm bảo tính thẩm mỹ: biểu hiện ở tỉ lệ cân xứng, hài hòa về đường nét, màu sắc, ánh sáng của các nội dung của công cụ, phương tiện trực quan. Tránh lạm dụng hình ảnh, ánh sáng, màu sắc lòe loẹt nhất là khi sử dụng giáo án điện tử, sẽ làm lệch hướng sự nhận thức của sinh viên.
* Đối với sinh viên
Cần rèn luyện sự tích cực, chủ động, kỹ năng quan sát kết hợp ghi chép thông qua sự hướng dẫn của giảng viên, thông qua những yêu cầu, nhiệm vụ mà giảng viên giao cho sinh viên trong quá trình vận dụng phương pháp trực quan vào giảng dạy, đồng thời rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng làm việc độc lập. Các kỹ năng này sẽ phối hợp với nhau trong quá trình sinh viên tiếp và thực hiện các hoạt động đã được giảng viên hướng dẫn.
* Đối với cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
Một là, các cơ sở đào tạo Luật cần tiếp tục đầu tư hoàn thiện và mở rộng phòng thực hành, trong đó trang bị các phương tiện, công cụ trực quan đối với từng môn học, đặc biệt là mô hình diễn án đối với các môn học Tố tụng.
Hai là, đầu tư các trang thiết bị phục vụ dạy học trực quan, bao gồm thiết bị dạy học hiện đại: máy tính, projecter, camera, dụng cụ mô hình trực quan đối với các môn học ngành Luật.
Ba là, mua sắm, sưu tầm các đầu sách, tài liệu học tập chuyên khảo, tham khảo đặc biệt là các đầu sách liên quan đến phương pháp giảng dạy các môn học ngành Luật.
Với vai trò của phương pháp quan trọng đối với việc giảng dạy các môn học ngành Luật đã đề cập trong bài viết thì có thể thấy việc áp dụng phương pháp trực quan là hết sức cần thiết. Với những nghiên cứu và gợi ý bài viết đưa ra sẽ giúp quý thầy (cô) có những định hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo các môn học ngành Luật.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Khoa Đào tạo Nghiệp vụ, Đề tài khoa học cấp trường “Áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn nghiệp vụ tại trường Trung cấp Luật Đồng Hới”, 2017
[2]. Vũ Hoa Tươi, Cẩm nang nghiệp vụ sư phạm, Đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả và những giải pháp ứng xử trong ngành Giáo dục hiện nay, Nxb. Tài chính, 2013.
Những môn học ngành Luật đặc thù là những môn học khoa học xã hội, nặng về lý thuyết, hàn lâm. Tuy nhiên trong xã hội hiện nay, yêu cầu chung đối với các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật không chỉ truyền đạt kiến thức lý thuyết mà còn thực hiện tôn chỉ “cầm tay chỉ việc”, không chỉ cung cấp kiến thức lý luận mà còn rèn luyện kỹ năng thực hành nghề nghiệp và có thể vận dụng tối đa ngay khi tiếp cận với công việc. Muốn làm được điều đó thì ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, sinh viên phải được tiếp cận với thực tiễn trong từng bài học.
Nắm bắt được yêu cầu chung đó, hầu hết các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hiện nay đã áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy nhưng việc áp dụng về cách thức, mức độ và tính hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo là khác nhau. Hiện nay việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy chưa được áp dụng triệt để, chưa thực sự phát huy được hiệu quả. Việc giảng dạy một số môn học vẫn còn mang tính cung cấp kiến thức một chiều, mang nặng tính lý thuyết, phương pháp trực quan chưa được áp dụng hoặc áp dụng nhưng chưa đưa lại hiệu quả thực sự. Sinh viên vẫn chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế thông qua các giờ học áp dụng phương pháp trực quan. Vì vậy chưa thể đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của các trường.
Một thực trạng mà chúng ta không thể phủ nhận đó là việc sinh viên khi ra trường còn thiếu các kỹ năng cần thiết của nghề nghiệp, bỡ ngỡ với thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động.
Xuất phát từ thực trạng trên và tầm quan trọng của việc áp dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật, bài viết tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về phương pháp trực quan, cách thức thực hiện và giải pháp để nâng cao chất lượng việc áp dụng phương pháp này trên thực tế.
1. Những vấn đề chung về phương pháp trực quan
1.1. Khái niệm phương pháp trực quan
Trước đây, một giờ dạy học được xem như là một buổi “biểu diễn nghệ thuật” của giảng viên. Vai trò chủ thể của sinh viên chưa được phát huy, các đồ dùng minh họa cho bài học còn hạn chế. Sinh viên là người bị động tiếp thu kiến thức còn giảng viên đóng là người truyền thụ kiến thức. Hiện nay, với việc đổi mới phương pháp dạy học thì vai trò chủ thể của sinh viên ngày càng được phát huy. Giờ dạy học không còn là “buổi biểu diễn nghệ thuật” của giảng viên nữa và việc vận dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học đã được chú trọng.
Bàn về phương pháp trực quan trong giảng dạy đã có rất nhiều học thuyết nói đến, đầu tiên thuật ngữ được sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai nhất của Xôcrat và Khổng Tử để con người nhận thức được thế giới. Bởi lẽ theo họ “thế giới hòa tan trong ta và con người có thể nhận thức chính bản thân họ”. Mối quan tâm của Khổng Tử đó là tri thức kinh nghiệm không có sẵn trong mỗi con người, nó được hình thành trong mỗi con người thông qua học tập. Ông khẳng định: “Tính người ta vốn gần nhau”, Khổng Tử rất coi trọng nhận thức cảm tính, con người nhận thức được thế giới phải dựa vào kết quả quan sát các sự vật trực quan và hai ông đã rút ra được nội dung dạy học cho mình trong quá trình giảng dạy. Từ đó “phương pháp trực quan gắn liền với dạy học”. [1]
Đầu thế kỉ XVII, nhà giáo dục nổi tiếng người Tiệp Khắc J.A. Kômenski (1592 - 1670) đã đưa ra nguyên tắc dạy học, lý luận dạy học và phương pháp dạy học của quá trình nhận thức. Ông cho rằng: “Kiến thức càng dựa vào cảm giác thì nó càng xác thực. Nghiên cứu sự vật không chỉ dựa vào cái mà người khác quan sát, chứng minh mà phải căn cứ vào những cái chính mắt mình nhìn, chính tai mình nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm, chính tay mình sờ, … Nguyên tắc này giúp sinh viên bằng kinh nghiệm của bản thân mình thấy được tri thức cụ thể, làm nền tảng cho tư duy. Tính cụ thể ấy buộc giảng viên phải minh họa bằng những sự vật có thật trong cuộc sống, bằng những tranh ảnh, mô hình, các tình huống thực tiễn … bằng cách mô tả rõ ràng chi tiết để gợi lại cho sinh viên nhớ lại những cái đã học hoặc tưởng tượng những cái chưa hề thấy.
Như vậy, phương pháp trực quan trong giảng dạy được hiểu là phương pháp dạy học sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
1.2. Phân loại phương pháp trực quan
Có thể chia phương pháp trực quan thành phương pháp trình bày trực quan và phương pháp quan sát.
Phương pháp trình bày trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới trong khi ôn tập, củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Có hai hình thức thể hiện phương pháp trình bày trực quan đó là: hình thức minh họa và hình thức trình bày. Trong đó, hình thức minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh họa. Hình thức trình bày thường gắn với việc trình bày những thí nghiệm, những thiết bị kỹ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm là trình bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận về mặt sư phạm.
Phương pháp quan sát là sự tri giác có chủ đích, có kế hoạch tạo khả năng theo dõi tiến trình và sự biến đổi diễn ra trong đối tượng quan sát. Quan sát là hình thức cảm tính tích cực nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những biểu tượng ban đầu về đối tượng của thế giới xung quanh. Quan sát gắn chặt với tư duy.
Dựa vào những căn cứ khác nhau, có thể phân ra thành các phương pháp quan sát sau:
- Căn cứ vào cách thức quan sát có thể phân ra quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp.
- Căn cứ vào thời gian quan sát có thể phân ra quan sát ngắn hạn, quan sát dài hạn.
- Căn cứ vào phạm vi quan sát có thể phân ra quan sát toàn diện, quan sát khía cạnh.
- Căn cứ vào mức độ tổ chức quan sát có thể phân ra quan sát tự nhiên và quan sát có bố trí, sắp xếp.
1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trực quan
Thứ nhất, về ưu điểm, sử dụng tốt phương pháp trực quan sẽ phát huy được vai trò quan trọng sau đây:
- Phương pháp trực quan làm cho các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học trở thành những nguồn tri thức quan trọng. Ví dụ: các giấy tờ, biểu mẫu; các bản hợp đồng mẫu; các văn bản hành chính… được sử dụng làm đồ dùng trực quan trong từng môn học cụ thể để sinh viên quan sát và rút ra được những đặc điểm phân biệt và tiến hành các thao tác trên đó. Vai trò này chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương pháp nhận thức quy nạp. Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để khẳng định những khái niệm, đặc điểm, kết luận và còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề. Vì vậy phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của sinh viên.
- Giúp sinh viên huy động sự tham gia của nhiều giác quan trong quá trình học, kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu, nhớ chính xác hơn và vận dụng kiến thức linh hoạt hơn, gây hứng thú làm phát triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học, qua đó phát huy được tính tích cực chủ động học tập cho sinh viên.
- Giúp sinh viên hiểu sâu sắc bản chất của vấn đề mà giảng viên đưa ra và giải quyết tốt vấn đề, là phương tiện rất hữu hiệu để hình thành các khái niệm trong quá trình ghi nhớ và hiểu, từ đó giúp sinh viên, sinh viên nắm vững các quy luật của vấn đề làm nền tảng kiến thức và tạo ra phương pháp tư duy logic để học tốt các môn tiếp theo.
- Phương pháp này còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của sinh viên, sinh viên đặc biệt là đối với các lưu sinh viên quốc tế. Bên cạnh đó, thông qua các hình ảnh trực quan có tác dụng hình thành và hoàn thiện những phẩm chất đạo đức, cảm xúc thẩm mĩ, tình cảm của sinh viên.
- Phương pháp này giúp sinh viên gần hơn với kiến thức thực tế. Thông qua đó sinh viên có thể biết cách vận dụng những kiến thức lý thuyết vào thực hành, nhận biết và áp dụng thực hiện được cho công việc sau này.
Thứ hai, về nhược điểm,
Phương pháp trực quan đòi hỏi nhiều thời gian, giảng viên cần tính toán kĩ để phù hợp với thời lượng đã quy định của một giờ học.
Nếu sử dụng đồ dùng trực quan không hợp lý sẽ làm phân tán chú ý của sinh viên, dẫn đến sinh viên không lĩnh hội được những nội dung chính của bài học.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan, đặc biệt là khi quan sát tranh ảnh, các phim điện ảnh, phim video, nếu giảng viên không định hướng cho sinh viên quan sát sẽ dễ dẫn đến tình trạng sinh viên sa đà vào những chi tiết nhỏ lẻ, không quan trọng.
2. Phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
2.1. Đặc thù của giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
- Các môn học chuyên ngành Luật thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, là những môn học mang tính hàn lâm cao, nặng về lý thuyết.
- Các môn học chuyên ngành Luật với những nội dung quy định pháp luật gắn liền với thực tiễn đời sống hàng ngày. Mục tiêu của các môn học chuyên ngành Luật là trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản, những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết về một số ngành luật và quan trọng hơn là tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến với sinh viên để sinh viên có thể ứng xử theo pháp luật trong mọi tình huống xảy ra trong quá trình học tập, lao động của mình.
- Chính vì đặc thù của các môn học chuyên ngành Luật như vậy, đặt ra một vấn đề cho công tác giảng dạy các môn học này đó là giảng dạy phải gắn với thực tiễn, “cầm tay chỉ việc”, đáp ứng được yêu cầu công việc sau khi ra trường của sinh viên.
Chính vì những lẽ đó, việc áp dụng giảng dạy phương pháp trực quan trong các môn học chuyên ngành Luật là rất cần thiết.
2.2. Các dạng công cụ, phương tiện trực quan chủ yếu đối với các môn học chuyên ngành Luật
Đối với các môn học chuyên ngành Luật, giảng viên có thể sử dụng các dạng công cụ, phương tiện trực quan cụ thể như sau:
- Các công cụ trực quan như: Hình ảnh , giáo án điện tử, hồ sơ tình huống pháp luật (bao gồm tình huống do giảng viên xây dựng, tình huống do giảng viên sưu tầm được hoặc tình huống giả định do sinh viên đóng vai...), hồ sơ, biểu mẫu ban hành kèm theo các quyết định pháp luật, các mô hình diễn án (trong Luật Tố tụng Dân sự, tố tụng Hình sự, tố tụng Hành chính),...
Ví dụ:
+ Môn Luật Tố tụng Dân sự - Tố tụng Hình sự: Giảng viên có thể sưu tầm, biên soạn những hình ảnh minh họa, mô phỏng các hoạt động liên quan đến hoạt động tố tụng như: hình ảnh các phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, hình sự; các phiên hòa giải trong dân sự...; xây dựng bộ hồ sơ tình huống pháp luật mang tính điển hình; trực tiếp tổ chức cho sinh viên thực hành các phiên tòa giả định;...
+ Môn Luật Lao động: Các hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; quyết định xử lý kỷ luật lao động; nội quy lao động; các hồ sơ tình huống về tranh chấp lao động (do giảng viên tự xây dựng hoặc sưu tầm); hồ sơ các vụ án lao động trên thực tế;...
+ Môn Luật Thương mại: Mẫu hợp đồng thương mại; mẫu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp; hồ sơ tình huống về tranh chấp thương mại; hồ sơ các vụ án thương mại trên thực tế;...
+ Môn Luật Hình sự : Hình ảnh về các hành vi phạm tội trên thực tế hoặc về các vụ án hình sự điển hình; hồ sơ các vụ án hình sự trên thực tế; các tình huống về vụ án hình sự do giảng viên xây dựng;...
- Các phương tiện trực quan như: máy tính, máy chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình, đèn chiếu, camera,…
2.3. Thực hiện phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học chuyên ngành Luật
Tùy theo đặc thù của môn học và nội dung của bài học mà giảng viên lựa chọn phương pháp trực quan phù hợp để giảng dạy. Trình tự tổ chức giảng dạy theo phương pháp trực quan có thể được khái quát qua các bước sau:
- Bước 1: Giảng viên lựa chọn, cung cấp những đồ dùng, phương tiện trực quan và định hướng cho sự quan sát, nghiên cứu của sinh viên.
Ví dụ: Đối với môn học Luật Dân sự, khi giảng dạy bài học về hợp đồng dân sự, giảng viên có thể cung cấp cho sinh viên các bản hợp đồng thực tế như hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thế chấp tài sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động…
Đối với môn học Luật Thương mại, khi giảng dạy pháp luật về doanh nghiệp, trong đó có nội dung về thủ tục đăng ký doanh nghiệp, giảng viên có thể cung cấp mẫu hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, một số điều lệ của các doanh nghiệp trên thực tế…
Đối với môn học Luật Tố tụng dân sự, giáo viên có thể cung cấp các văn bản tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án dân sự; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Bản án của Tòa án….
Bên cạnh đó, giáo viên có thể cung cấp các video thực tiễn, các hồ sơ tình huống pháp lý thực tế gắn với môn học mà mình giảng dạy. Sau khi cung cấp các công cụ trực quan này, giảng viên nêu các yêu cầu cơ bản đối với sinh viên như: trình bày được những nội dung cơ bản của hợp đồng dân sự, các quy định về hiệu lực của hợp đồng dân sự, yêu cầu về tính pháp lý và tính chính xác của các văn bản tố tụng, những nội dung chính của các video, hình ảnh được xem…
- Bước 2: Giảng viên phân tích và khai thác nội dung của phương tiện, công cụ trực quan đã cung cấp.
Sau khi cung cấp các phương tiện trực quan như đã trình bày ở bước 1, giảng viên phân tích các nội dung pháp lý liên quan đến các công cụ trực quan đã cung cấp như: nội dung của hợp đồng; tính chính xác và hợp pháp của các văn bản tố tụng; những nội dung cơ bản của video đã cung cấp… Việc khai thác các công cụ trực quan này nhằm thực hiện mục tiêu của bài học mà giảng viên muốn hướng đến.
- Bước 3: Giảng viên yêu cầu một số sinh viên trình bày, giải thích nội dung những gì thu nhận được qua các phương tiện, công cụ trực quan.
Sau khi cung cấp và phân tích, khai thác nội dung của các công cụ trực quan, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên trình bày khái quát các kiến thức tiếp thu được thông qua nghiên cứu, phân tích các công cụ trực quan được giảng viên cung cấp và thực hiện một số kỹ năng liên quan đến môn học.
- Bước 4: Giảng viên khái quát, kết luận về nội dung kiến thức và các kỹ năng mà sinh viên cần đạt được sau khi khai thác phương tiện trực quan.
* Ví dụ: Đối với các môn học Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự là những môn học gắn với thực tế cuộc sống, các tình huống thực tế vô cùng đa dạng. Do đó, thay vì giảng dạy theo các phương pháp truyền thống, giảng viên cần hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên làm quen, phân tích, đưa ra phương án đối với những tình huống này trên lớp thông qua hoạt động làm bài tập cá nhân hoặc nhóm, diễn án, xem các video về các phiên tòa thực tế... Đặc biệt, giảng viên tổ chức cho sinh viên đóng vai diễn các phiên tòa trên lớp và có hình thức kiểm tra chất lượng thông qua các bài viết thu hoạch. Ngoài ra, có thể tăng cường tổ chức các phiên tòa lưu động về các vụ án hình sự. Đây là phương pháp trực quan giúp sinh viên có góc nhìn sinh động, thực tế hơn sau những giờ lý thuyết trên lớp.
Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp dạy học trực quan, giảng viên có thể kết hợp với những phương pháp dạy học tích cực khác như tổ chức trao đổi, thảo luận nhóm, xây dựng và xử lý tình huống pháp lý giả định…
2.4. Yêu cầu của việc sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật
Để phát huy được hết vai trò, tính tích cực của phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật, việc áp dụng phương pháp này cần thực đáp ứng được những yêu cầu sau đây: [2]
Thứ nhất, lựa chọn, chuẩn bị chu đáo, thận trọng về số lượng, chất lượng các công cụ, phương tiện trực quan sao cho phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học. Từ đó giải thích rõ mục đích trình bày những công cụ, phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng phù hợp với từng môn học Luật. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát cần dùng các thiết bị có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy luật cảm giác, tri giác.
Thứ hai, giảng viên cần nêu rõ yêu cầu và hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được từ dụng cụ, phương tiện trực quan đã cung cấp. Trên cơ sở đó giúp sinh viên rút ra những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt những kết luận đó dưới dạng văn nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác.
Thứ ba, bảo đảm cho tất cả sinh viên quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có thể thì phân phát các vật thật cho sinh viên và chỉ sử dụng những công cụ, phương tiện trực quan khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong nên cất ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của sinh viên.
Thứ tư, đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của sinh viên.
Thứ năm, đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và phương tiện kỹ thuật dạy học.
3. Nâng cao hiệu quả áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn học ngành Luật
Mỗi phương pháp giảng dạy đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, đối với phương pháp trực quan có ưu điểm là đem lại cho sinh viên những góc nhìn sinh động hơn về kiến thức môn học, tạo được sự hứng thú học tập đối với sinh viên và bước đầu trang bị được các kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu việc làm của sinh viên sau khi ra trường. Chính vì lẽ đó cần phải có những phương pháp nâng cao chất lượng của phương pháp này trên thực tế. Cụ thể như sau:
* Đối với công tác tổ chức
Lãnh đạo Trường và các Khoa chuyên môn cần chỉ đạo và quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có khuyến khích việc sử dụng phương pháp trực quan. Quan tâm đến các hoạt động nhằm ứng dụng có chất lượng, hiệu quả và phổ biến rộng rãi phương pháp này bên cạnh những phương pháp dạy học truyền thống khác: như tổ chức các hội thảo chuyên đề về phương pháp này, ứng dụng vào hoạt động dạy học thực tế các môn học tại Trường; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học các môn Luật..., tổ chức bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, phần mềm máy tính, mô hình trực quan, khai thác thông tin trên mạng Internet vận dụng vào quá trình dạy học.
Có cơ chế hỗ trợ để giảng viên đi thực tế, tham gia các hoạt động tư vấn, hỗ trợ pháp lý để tích lũy kinh nghiệp thực tế phục vụ việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy.
* Đối với giảng viên
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của phương pháp trực quan đối với việc giảng dạy.
Thứ hai, nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn của giảng viên, đặc biệt là am hiểu thực tế và kỹ năng thực hành các nghiệp vụ đối với môn học mà mình phụ trách. Việc giảng viên tích lũy kinh nghiệm thực tiễn có thể thông qua nhiều con đường như cập nhật, nghiên cứu các tài liệu chuyên sâu liên quan đến môn học; hoạt động thực tế tại các cơ quan, tổ chức đang quản lý và thực hiện các hoạt động liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà mình phụ trách; tham gia tư vấn, giải quyết các vụ việc trên thực tế; tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học…
Thứ ba, nội dung các môn học ngành luật đều khác nhau nên các công cụ, phương tiện trực quan áp dụng đối với từng môn học cũng khác nhau. Do đó, để giảng viên chủ động và thuận tiện áp dụng các phương pháp trực quan, giảng viên phải tự xây dựng hồ sơ trực quan đối với môn học mà mình phụ trách. Hồ sơ trực quan sẽ bao gồm công cụ, phương tiện trực quan được áp dụng trong từng chương học cụ thể. Việc tự xây dựng này có thể thông qua việc nghiên cứu các sách báo, tài liệu pháp luật hoặc thông qua việc tiếp tục tham gia đi thực tế tại địa bàn.
Ví dụ: Giáo viên, giảng viên phụ trách môn học Luật Tố tụng Hình sự thì có thể dành thời gian tham gia đi thực tế tại các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; giảng viên phụ trách môn học Luật Lao động thì có thể tiếp tục tham gia đi thực tế tại các doanh nghiệp, khu công nghiệp…
Ngoài ra, cần tăng cường sinh hoạt chuyên môn thường xuyên với các nội dung liên quan đến chuyên đề áp dụng phương áp trực quan vào giảng dạy, chia sẻ những kinh nghiệm, những ưu điểm và những mặt còn tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy; mời các chuyên gia, các giảng viên có kinh nghiệm, sử dụng phương pháp trực quan dạy học lâu năm để tập huấn, bồi dưỡng; tăng cường hoạt động dự giờ, chia sẻ kinh nghiệm áp dụng phương pháp trực quan trong đội ngũ giảng viên.
Thứ tư, việc sử dụng phương pháp trực quan đòi hỏi giảng viên phải đầu tư nhiều về trí tuệ, công sức, tìm tòi và sáng tạo.Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và đặc biệt là pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của các công cụ, phương tiện trực quan cũng có hạn. Điều đó đòi hỏi bản thân giảng viên phải thật sự tâm huyết, chủ động trong việc tìm tòi, đổi mới hồ sơ trực quan của môn học mình; phải rèn luyện đức tính cần cù, chịu khó, yêu nghề, gắn bó với nghề... Có vậy, giảng viên mới đưa ra được những công cụ, phương tiện trực quan chất lượng, sát với yêu cầu của bài học cũng như sự thay đổi của pháp luật.
Thứ năm, khi áp dụng phương pháp trực quan trong dạy học các môn học ngành luật cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như:
- Phải đảm bảo tính khoa học sư phạm của các phương tiện trực quan.
- Hồ sơ trực quan phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu, kết quả cần đạt được của môn học. Phương tiện dạy học không chỉ đáp ứng nhu cầu hứng thú, sinh động trong giờ học mà còn phải nhằm hình thành kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên phù hợp với mục tiêu của bài học, tránh đưa vào những phương tiện trực quan mà nội dung của nó dài dòng hay trùng lặp (chẳng hạn như quá nhiều hình ảnh, phim ảnh trong một mục hay trong nội dung toàn bài học).
- Hồ sơ trực quan phải phù hợp với sinh viên. Trong đó, phải có sự phù hợp với năng lực nhận thức của sinh viên, nghĩa là các phương tiện trực quan phải chứa đựng những thông tin cần học và mức độ tư duy phù hợp với năng lực nhận thức của sinh viên. Đồng thời, khi áp dụng phương pháp trực quan cần đảm bảo tính thẩm mỹ: biểu hiện ở tỉ lệ cân xứng, hài hòa về đường nét, màu sắc, ánh sáng của các nội dung của công cụ, phương tiện trực quan. Tránh lạm dụng hình ảnh, ánh sáng, màu sắc lòe loẹt nhất là khi sử dụng giáo án điện tử, sẽ làm lệch hướng sự nhận thức của sinh viên.
* Đối với sinh viên
Cần rèn luyện sự tích cực, chủ động, kỹ năng quan sát kết hợp ghi chép thông qua sự hướng dẫn của giảng viên, thông qua những yêu cầu, nhiệm vụ mà giảng viên giao cho sinh viên trong quá trình vận dụng phương pháp trực quan vào giảng dạy, đồng thời rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm và kỹ năng làm việc độc lập. Các kỹ năng này sẽ phối hợp với nhau trong quá trình sinh viên tiếp và thực hiện các hoạt động đã được giảng viên hướng dẫn.
* Đối với cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
Một là, các cơ sở đào tạo Luật cần tiếp tục đầu tư hoàn thiện và mở rộng phòng thực hành, trong đó trang bị các phương tiện, công cụ trực quan đối với từng môn học, đặc biệt là mô hình diễn án đối với các môn học Tố tụng.
Hai là, đầu tư các trang thiết bị phục vụ dạy học trực quan, bao gồm thiết bị dạy học hiện đại: máy tính, projecter, camera, dụng cụ mô hình trực quan đối với các môn học ngành Luật.
Ba là, mua sắm, sưu tầm các đầu sách, tài liệu học tập chuyên khảo, tham khảo đặc biệt là các đầu sách liên quan đến phương pháp giảng dạy các môn học ngành Luật.
Với vai trò của phương pháp quan trọng đối với việc giảng dạy các môn học ngành Luật đã đề cập trong bài viết thì có thể thấy việc áp dụng phương pháp trực quan là hết sức cần thiết. Với những nghiên cứu và gợi ý bài viết đưa ra sẽ giúp quý thầy (cô) có những định hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo các môn học ngành Luật.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Khoa Đào tạo Nghiệp vụ, Đề tài khoa học cấp trường “Áp dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy các môn nghiệp vụ tại trường Trung cấp Luật Đồng Hới”, 2017
[2]. Vũ Hoa Tươi, Cẩm nang nghiệp vụ sư phạm, Đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả và những giải pháp ứng xử trong ngành Giáo dục hiện nay, Nxb. Tài chính, 2013.