Tăng cường thực hành và khả năng tự nghiên cứu của sinh viên trong đào tạo Luật

Việc đào tạo cử nhân trong thời gian qua đặc biệt đối với các ngành khoa học xã hội, trong đó có ngành pháp luật còn nặng về lý thuyết, thiếu thực hành. Nhưng sinh viên ra trường, quá trình làm việc đòi hỏi phải có sản phẩm cụ thể, thông qua đó đánh giá năng lực, hiệu quả công việc như: ghi biên bản, soạn thảo hợp đồng và giải quyết các hồ sơ pháp lý về các giao dịch, thực hiện các thủ tục hành chính đối với tổ chức cá nhân theo quy định của pháp luật… Chính vì vậy, nhiều sinh viên luật ra trường không đáp ứng được yêu cầu công việc của người sử dụng lao động yêu cầu mà đơn giản chỉ là soạn thảo một văn bản hành chính.
Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tăng cường đổi mới, áp dụng triệt để việc dạy và học trong đào tạo luật để giúp sinh viên khi ra trường có các kỹ năng chuyên môn cần thiết, đáp ứng cơ bản công việc thực tế mà người sử dụng lao động đặt ra. Qua quá trình làm công tác tuyển dụng, đào tạo, quản lý, sử dụng các sinh viên luật và thời gian tham gia giảng dạy chúng tôi thấy cần thiết phải tăng cường hơn nữa vấn đề thực hành và khả năng tự nghiên cứu của sinh viên trong đào tạo luật để cùng với các giải pháp đồng bộ khác nhằm nâng cao kỹ năng cho sinh viên.
1. Tăng cường giảng dạy thực hành trong đào tạo luật hiện nay
1.1. Thực trạng việc giảng dạy thực hành trong đào tạo luật
- Hiện nay các cơ sở đào tạo luật đa số đều thành lập các trung tâm thực hành nghề luật cho sinh viên với cách vận hành mô phỏng mô hình thực hành luật tại văn phòng thực hành luật; thực hành luật lưu động; thực tập tại cơ quan tư pháp, cộng đồng; thực hành luật mô phỏng (phiên toà giả định) hoặc là sự kết hợp của nhiều mô hình kể trên trong chương trình thực hành và hệ thống cơ sở dữ liệu pháp luật phục vụ cho công tác học tập, thực hành và nghiên cứu. trong đó sinh viên tham gia một cách tình nguyện và được tạo điều kiện để thực hành các kiến thức và kỹ năng đã được học tại giảng đường. Thông qua đó, rèn luyện kỹ năng, giáo dục đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cho sinh viên, giúp sinh viên trải nghiệm thực tế bằng việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho các cộng đồng, đặc biệt là những người nghèo, khó khăn và không có điều kiện tiếp cận với hệ thống pháp luật.
Quá trình này, sinh viên luật sẽ đóng vai trò chủ động trong quá trình học tập và hiểu được cách thức luật áp dụng trong các tình huống thực tế, cung cấp cho sinh viên luật những công cụ tạo dựng nên nền tảng cho nghề nghiệp của họ trong tương lai. Trong khi các phương pháp giảng dạy luật truyền thống thường có xu hướng tập trung vào nội dung lý thuyết của luật và các kiến thức nền tảng, thì thực hành lại mang đến cho sinh viên các kỹ năng cần thiết
Chính các trung tâm hoặc mô hình thực hành như trên đã góp phần nâng cao chất lượng và kỹ năng cho sinh viên luật. Thực tế chứng minh, sinh viên tốt nghiệp đã từng tham gia tích cực vào các chương trình đào tạo kỹ năng và thực hành ở trung tâm thực hành nghề luật đều có thể tiếp cận công việc sau khi ra trường rất tốt. Thái độ làm việc tương  đối chuyên nghiệp và có khả năng hòa nhập nhanh với văn hóa của đơn vị công tác.
Tuy nhiên, chương trình thực hành và đào tạo kỹ năng cho các sinh viên luật đa số đều mang tính tự nguyện, số lượng sinh viên tham gia còn hạn chế so với số lượng sinh viên luật được đào tạo. Quy mô và năng lực của của nhiều trung tâm chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, mục đích, tiêu chí đặt ra của cơ sở đào tạo, đặc biệt là đội ngũ giảng viên hướng dẫn thực hành, cơ sở vật chất, chương trình…
- Thực tiễn giảng dạy, các giảng viên đã tiếp cận đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đào tạo ở bậc đại học là học tập chủ động. Khắc phục cơ bản hạn chế phương pháp truyền thống, diễn giảng, thuyết trình - phương pháp giảng dạy còn thiên về hàn lâm, lý luận, chưa tìm ra những cách thức hiệu quả giúp sinh viên chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức và sử dụng những quy định của pháp luật để giải quyết những vấn đề pháp lý phát sinh trong cuộc sống. Giảng viên chưa đặt ra yêu cầu cao đối với sinh viên trong quá trình giảng dạy; chưa đánh thức được sự đam mê, khả năng tư duy của người sinh viên. Các tiết học pháp luật trôi qua nhàm chán, thiếu sức sống, không thuyết phục, không sinh động.
Với phương pháp học tập chủ động hiện nay, giảng viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn sinh viên tìm kiếm tài liệu và nghiên cứu, những lời giảng của các thầy cô chỉ mang tính chất gợi ý, và hướng dẫn sinh viên thảo luận, tự nghiên cứu viết tiểu luận, hướng dẫn thực hành... còn chủ yếu dựa vào khả năng tự tiếp thu, tự nghiên cứu và xử lý kiến thức của sinh viên đối với bài học đó.
Với cách dạy và học mới này thì quan niệm, bản chất, nội dung, hình thức và phương pháp học hoàn toàn khác: Học chính là quá trình kiến tạo, sinh viên tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lý thông tin,… tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất; bản chất  là tổ chức hoạt động nhận thức cho sinh viên, dạy sinh viên cách tìm ra chân lý; với mục tiêu là để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai, những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân sinh viên và cho sự phát triển xã hội; nội dung giảng dạy là từ vốn hiểu biết, kiến thức, kinh nghiệm của giảng viên, từ tình huống, bối cảnh và môi trường thực tế; hình thức tổ chức cơ động, linh hoạt: học ở lớp, ở phòng thực hành, ở cộng đồng, trong thực tế…, học cá nhân, học đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp đối diện với giáo viên; và bằng các phương pháp tìm tòi, điều tra, giải quyết vấn đề; dạy học tương tác (ôn tập, giải quyết tình huống, thảo luận nhóm, mô phỏng, thực hành, trải nghiệm …).
Việc sử dụng các phương pháp nói trên giúp sinh viên dễ hiểu và dễ nhớ các vấn đề lý thuyết phức tạp; nâng cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo; có cơ hội để liên kết, vận dụng các kiến thức đã học được; phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng chưa có căn cứ pháp lý hoặc cơ sở lý thuyết để áp dụng giải quyết; rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình, khả năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của sinh viên, phù hợp với nhu cầu và sở thích; làm tăng sự hứng thú của phần lớn sinh viên đối với môn học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Đồng thời,  giảng viên vừa chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho sinh viên, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học viên đã có quá trình công tác thực tiễn.
 Thực tế chứng minh hiệu của việc tiếp thu kiến thức từ người học từ các phương pháp qua mô hình tháp hoc tập
1
Mô hình tháp học tập: sự tập trung và nhớ của người học tăng lên theo các hoạt động đa dạng
Việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy và học, đảm bảo thời gian dạy lý thuyết, nhưng tăng thời gian thực hành và đào tạo kỹ năng là tất yếu khách quan của các cơ sơ đào tạo nói chung và đào tạo chuyên ngành luật nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giảng dạy thực hành cho sinh viên luật vẫn chưa thực hiện một cách triệt để,  giảng viên vì nhiều lý do khác nhau, chủ yếu là về áp lực công việc, thời gian nên hạn chế đầu tư cho bài giảng, ngại thay đổi, phụ thuộc vào giáo trình, dạy đi dạy lại một cách lối mòn những điều đã có, đã được ghi chép  một cách đầy đủ, rõ ràng trong sách vở, tài liệu. Kiến thực thực tế không đủ để minh họa, ví dụ những vấn đề có tính chất trìu tượng hoặc trìu tượng hóa những vấn đề cụ thể. Kinh nghiệm thực tiễn của giảng viên cũng là một hạn chế rất lớn trong việc giảng dạy pháp luật, đặc biệt cho vấn đề giảng dạy thực hành, giải quyết tình huống.
- Chương trình, giáo trình đào tạo cử nhân luật hiện này được thiết kế rất ít, thậm chí không có nội dung, thời gian dành cho thực hành. Đặc biệt là các môn học gắn liền với kỹ năng nghề nghiệp, như các môn học tố tụng, soạn thảo văn bản, nghiệp vụ công chứng, chứng thực… Việc thực hiện các hoạt động thực hành, thảo luận, giải quyết tình huống… hoàn toàn phụ thuộc vào giảng viên. Dẫn đến sự tùy tiện, nhiều giảng viên dạy phụ thuộc vào máy chiếu, câu hỏi thảo luận và tình huống đều từ giáo trình không có một chút thực tế, trong khi Nhà trường, khoa chuyên môn thiếu sự đôn đốc, quản lý.
- Thời gian thực tập của sinh viên còn mang tính hình thức
Đây là giai đoạn quan trọng giúp sinh viên định hướng tương lai, áp dụng các kiến thức đã được học vào thực tế, giúp sinh viên rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết với thực hành và có sự chuẩn bị tốt nhất cho tương lai nghề nghiệp thông qua việc trao dồi các kỹ năng, giao tiếp, nắm được kiến thức chuyên ngành quan trong. Tuy nhiên, hiện nay một số cơ sở đào tạo đào tạo Luật, cơ quan tiếp nhận chưa thực sự quan tâm, coi trọng vai trò của quá trình thực tập; công việc thực tập không gắn với chuyên môn; hay chỉ mang tính hình thức theo kiểu “đánh trống ghi tên”, báo cáo thực tập được copy, sao chép, nhào nặn, bổ sung một vài số liệu được cơ quan tiếp nhận thực tập xác nhận. Việc này không phải các cơ sở đào tạo, đơn vị thực tập không biết, nhưng tình trạng trên vẫn diễn ra.
Mặt khác, thời gian thực tập chỉ tập trung trong thời gian ngắn, khoảng 1 tháng là rất khó để sinh viên tiếp thu trọn vẹn thực tiễn công việc mà chủ yếu là làm quen, để “xin” số liệu phục vụ cho việc viết báo cáo.
1.2. Giải pháp tăng cường thực hành trong việc đào tạo luật
Thứ nhất, tiếp tục phát huy chức năng của Trung tâm tư vấn và thực hành nghề luật và các phòng chức năng cho việc thực hành nghề luật; đầu tư nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị…, mở rộng quy mô, đa dạng hình thức hoạt động đảm bảo cho việc triển khai và vận hành hoạt động của trung tâm có tính chuyên nghiệp và hiệu quả. Xây dựng cơ chế hành chính (thiết kế trong chương trình đào tạo); khuyến khích đảm bảo cho tất cả các sinh viên đều phải tham gia các chương trình hoạt động của trung tâm, đặc biệt là các hoạt động thiện nguyện, tư vấn, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý…
Thứ hai, tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo cử nhân luật, rà soát, sẵn sàng cắt bỏ những nội dung mang nặng lý thuyết hàn lâm, không phù hợp, gắn với thực tiễn ứng dụng, tăng thời gian thực hành, thảo luận, làm việc nhóm, giải quyết tình huống…, bổ sung các học phần kỹ năng thực hành nghề luật vào chương trình. Chương trình đào tạo phải phù hợp với vị trí, chức danh công việc mà người học khi ra trường có thể đảm nhận.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng, bổ sung đội ngũ giảng viên vừa giỏi chuyên môn, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và tinh thông về kỹ năng nghề nghiệp. Các cơ sở đào tạo cần phải có chế tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên tham gia thực hiện các hoạt động thực tiễn như: tham gia xây dựng, thẩm định, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật; thực hiện một số hoạt động tư vấn pháp luật; tham gia làm Hội thẩm nhân dân…; Đồng thời, tăng cường và tận dụng đội ngũ giảng viên thỉnh giảng là các thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, điều tra viên, chuyên gia pháp luật, cán bộ quản lý đang công tác tại các tòa án, các cơ quan tư pháp, các cơ quan đơn vị hành chính - sự nghiệp và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác tham gia giảng dạy và hướng dẫn thực hành cho sinh viên.
Thứ tư, đổi mới công tác thực tập theo hướng lồng ghép các khóa học thực tế, các chương trình đi tìm hiểu thực tế vào trong suốt quá trình đào tạo thay vì chỉ bố trí cho sinh viên đi thực tập tốt nghiệp cuối khóa như hiện nay.  Đồng thời đi vào thực chất, đánh giá chính xác kết quả thực tập. Muốn vậy, các cơ sở đào tạo tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức trong việc tiếp nhận thực tập và kiểm soát chặt chẽ quá trình thực tập của sinh viên.
Thứ năm, định kỳ tổ chức các hoạt động ngoại khóa: Thảo luận, tọa đàm về các nội dung, các đề tài pháp luật; tổ chức nghe, nói chuyện chuyên đề pháp luật, xem phim, xem tiểu phẩm, đi thực tế, dự phiên tòa, thi tìm hiểu pháp luật, thi văn nghệ với chủ đề pháp luật, tổ chức giao lưu giữa các khoa, các lớp, thành lập các câu lạc bộ pháp luật, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ theo chủ đề pháp luật; tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cộng đồng; phong trào thanh niên tình nguyện, thanh niên xung kích tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ pháp luật.
Thứ sáu, tăng cường quản lý, kiểm tra, đánh giá của Nhà trường đối với việc dạy và học của sinh viên.
2. Tăng cường khả năng tự nghiên cứu của sinh viên
Đào tạo ở ở bậc đại học nói chung và đặc biệt là chuyên ngành luật nói riêng khối lượng chương trình đào tạo và từng môn học môn học, tài liệu, giáo trình đào tạo rất nhiều và rộng, thời gian đào tạo được định sẵn, giảng viên lên lớp chủ yếu là giảng dạy những kiến thức cơ bản,  giải đáp các thắc mắc và hướng dẫn các tài liệu, các phần nên đọc trong học phần của môn học. Vì vậy, phải tăng cường kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tài liệu.. của sinh viên, giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng đánh giá, chọn lọc thông tin và vận dụng tri thức. Trong quá trình tìm đọc và phân tích tài liệu pháp lý, sinh viên được rèn luyện tư duy logic, tư duy lập luận và bảo vệ quan điểm; được tiếp cận những phương pháp xử lý vấn đề một cách chặt chẽ, từ đó áp dụng vào từng trường hợp để tìm ra giải pháp; giúp sinh viên hình thành những phẩm chất, thói quen nghề nghiệp tích cực.
Tuy nhiên, hệ thống các văn bản pháp luật, tài liệu, giáo trình, hồ sơ,tình huống pháp luật… số lượng rất lớn, từ nhiều nguồn và thay đổi theo thời gian và thực tiễn đời sống pháp pháp lý, trong khi sinh viên theo thói quen học thụ động, phụ thuộc nhiều vào kiến thức do giáo viên cung cấp và giáo trình có sẵn, đồng thời, vốn ngoại ngữ, tin học hạn chế của sinh viên làm một trở ngại trong việc tiếp cận các tài liệu thông tin quốc tế và tham khảo việc phân tích, áp dụng pháp luật qua các tình huống.  Vì vậy, cần có sự hướng dẫn của thầy cô trong việc học của sinh viên, tập trung vào các nội dung sau đây:
Thứ nhất, giảng viên phải tạo cho sinh viên niềm say mê môn học, giới thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Muốn vậy, đỏi hỏi mỗi giảng viên phải tâm huyết với nghề, vận dụng được những phương pháp giảng dạy tích cực thu hút được sinh viên học tập, nghiên cứu
Thứ hai, giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên kỹ năng nghe giảng, ghi chép, đọc sách, ghi nhớ, tìm và nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị và kiểm tra, xây dựng kế hoạch học tập ..., yêu cầu sinh viên phân tích, tổng hợp kiến thức và kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện của sinh viên.
Thứ ba, giảng viên giao nhiệm vụ cụ thể cho sinh ở tiết học tiếp theo. Để phát huy tối đa năng lực tự học, tự nghiên cứu và thúc đẩy sinh viên tận dụng hết thời gian nghiên cứu, giúp sinh viên định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em có thể tìm hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều.
Không có một phương pháp dạy học nào chỉ có ưu điểm mà không có khuyết điểm. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là muốn người học bơi được thì phải cho xuống nước chứ không thể dạy bơi trên bờ. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo đại học nói chung, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực pháp luật có chất lượng cho xã hội, bên cạnh việc triển khải đồng bộ các giải pháp của các cơ sở đào tạo, bên cạnh rà soát, cung cấp những kiến thức lý thuyết cơ bản thì việc tăng cường thực hành và khả năng tự nghiên cứu của sinh viên là một trong những giải pháp thực tiễn, có ý nghĩa trong việc hình thành kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên ngay từ khi còn ở giảng đường, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật của các cơ sở đào tạo luật hiện nay bởi như Bác Hồ đã nói: Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496)./.

Tác giả bài viết: ThS. Nguyễn Lương Băng