Tổng quan về hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

Việc nghiên cứu làm rõ hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào có ý nghĩa rất lớn trong việc phân tích tổ chức và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội,… Đồng thời, đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo có chất lượng để giáo viên, người học và các học giả quan tâm nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tập trung làm rõ hệ thống chính trị ở Việt Nam và Lào ở một số điểm như sau: (i) Khái niệm, đặc điểm hệ thống chính trị của Việt Nam và Lào; (ii) Các thể chế chính trị của hệ thống chính trị của Việt Nam và Lào, từ đó có những nhận xét về mô hình hệ thống chính trị của hai nước.
Chính trị được hiểu là những vấn đề điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của giai cấp, chính đảng nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành nhà nước[1]. Chính trị là một trong những lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động và các mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề chung của toàn xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp chiếm ưu thế luôn luôn muốn giành lấy vai trò thực hiện các công việc chung để xác lập và duy trì địa vị thống trị của giai cấp mình. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng, thực chất chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ chính quyền và sử dụng quyền lực nhà nước. Tất nhiên, chính trị không chỉ bao gồm các công việc của Nhà nước. Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì còn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải quyết như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các phương án giải quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp nắm quyền... Vì vậy, bên cạnh Nhà nước trong xã hội còn tồn tại các tổ chức chính trị khác.
Hệ thống chính trị là một chính thể trong việc tổ chức mối quan hệ qua lại với những hệ thống khác như: Hệ thống kinh tế, văn hóa, xã hội,… Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính trị quốc gia là địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội. Các nước khác nhau ở các khu vực khác nhau có những sự khác biệt nhất định trong quá trình hình thành, tổ chức và vận hành các hệ thống chính trị. Bên cạnh những nét khác biệt, giữa Việt Nam và Lào trong quá trình hình thành, xây dựng và phát triển đất nước cũng có nhiều nét tương đồng về hệ thống chính trị.
I. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
1. Khái niệm hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về hệ thống chính trị: Cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, cách tiếp cận thể chế, cách tiếp cận hệ thống, cách tiếp cận chức năng,… Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được chính thức sử dụng từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3-1989), từ đó khái niệm này được các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các tài liệu khoa học, sách báo sử dụng rộng rãi thay cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản trước đây. Điều này thể hiện sự nhận thức mới về chính trị - nó không chỉ vượt qua tính chất nặng về bản chất giai cấp và mặt chuyên chính của chính trị; điều quan trọng hơn là, chú trọng và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống, điều mà trước Đại hội VI chưa được cụ thể hóa thành thể chế. Về cơ cấu tổ chức hệ thống chính trị được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) và Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) và được hiến định trong Hiến pháp 1992. 
Theo đó, Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể gồm các thiết chế chính trị bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội gồm: Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
2. Một số đặc điểm của hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức và vận hành trong điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội và môi trường văn hóa chính trị đặc thù. Do đó, hệ thống chính trị Việt Nam vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Tính đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam được thể ở những nội dung sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay ra đời cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước Việt Nam, mặc dù nhiều tổ chức thành viên của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời trước Nhà nước như Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn,…
Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đặc thù này được quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng đảm bảo sự ổn định về chính trị của nước ta.
Thứ ba, hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng theo mô hình hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, mặc dù đang trong quá trình đổi mới, hoàn thiện nhưng vẫn còn ảnh hưởng của chế độ tập trung quan liêu, bao cấp.
Thứ tư, Ở Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đều được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức rèn luyện, ra đời ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, trở thành các tổ chức quần chúng, cơ sở chính trị - xã hội của Đảng.
Thứ năm, hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay thể hiện tính dân chủ rộng rãi. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện tổ chức và vận hành hệ thống chính trị. Các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc dân chủ nhằm thực hiện có hiệu quả quyền lực của nhân dân.
Thứ sáu, trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tính tích cực chính trị của nhân dân luôn được phát huy. Đặc điểm này thể hiện ở việc nhân dân tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến vào những quyết sách chính trị lớn của đất nước và tích cực thực hiện những quyết sách đó; ủng hộ Nhà nước về cả vật chất lẫn tinh thần để giải quyết những vấn đề chính trị của đất nước…
3. Các thể chế chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam
Ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện nay, hệ thống chính trị gồm hai thành phần cơ bản là nhà nước và các chính đảng (đảng chính trị). Khác với hệ thống chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa, hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, ngoài Nhà nước và các chính đảng còn có một số tổ chức chính trị xã hội đặc biệt khác, được thành lập để thực hiện các hoạt động chính trị đặc biệt. Các tổ chức chính trị đặc biệt này ngoài các hoạt động chính trị là chủ yếu còn thực hiện các chức năng xã hội khác nhưng đó không phải chức năng chủ yếu.
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị; Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai trò chủ đạo đối với quản lý xã hội.
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đảng Cộng sản vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Đó là vai trò đặc biệt của Đảng trong hệ thống chính trị.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng; tăng cường mối quan hệ của Đảng đối với các thành viên của hệ thống chính trị.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là các vấn đề của đất nước, trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành; trong các mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong nội dung của cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng khóa XII tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là vấn đề cơ bản. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội có nhiều quan điểm và giải pháp mới: Nội dung về công tác xây dựng Đảng được nhấn mạnh và đặt đúng tầm quan trọng; đã xác định phương hướng chung về công tác xây dựng Đảng cả nhiệm kỳ; xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng, trong đó có 2 nhiệm vụ mới đó là: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân” và “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”, 8 nhiệm vụ còn lại: Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị; Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; Về tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị;  Về xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; Về công tác cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ; Về đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đều được bổ sung, phát triển nhấn mạnh so với Đại hội XI.
3.2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 
 Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Chính quyền địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
 Viện Kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định.
Chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó. 
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
3.3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội
Trong lịch sử cách mạng nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội giữ vai trò rất quan trọng. Các tổ chức này đã động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đấu tranh thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội là thành viên đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và củng cố Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.  Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 
Các tổ chức chính trị xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Các tổ chức chính trị xã hội bao gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Các tổ chức chính trị xã hội nói trên được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[2].
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia vào việc quản lý nhà nước và xã hội. [3]
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới.[4]
Hội Nông dân Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.[5]
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đại diện ý chí, nguyện vọng của Cựu chiến binh, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.[6]
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của các thành viên; thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý các công việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng Nhà nước mà còn thông qua các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội. Vì vậy, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội là những tổ chức hợp pháp được tổ chức ra để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Cùng với hình thức tổ chức của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở.
Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp pháp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ”.
Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị. Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp. Sớm tổng kết mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện.
II. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC CHDCND LÀO
1. Khái niệm hệ thống chính trị của nước CHDCND Lào
Hệ thống chính trị ở Lào là một chính thể gồm các thiết chế chính trị bao gồm: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; Mặt trận Lào xây dựng đất nước; Hội Cựu chiến binh Lào; Công đoàn Lào; Hội Liên hiệp phụ nữ Lào; Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào[7], được vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Lào.
2. Một số đặc điểm của hệ thống chính trị của nước CHDCND Lào
Hệ thống chính trị bao gồm các bộ phận cấu thành có quan hệ mật thiết với nhau và có vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận hành của các quá trình chính trị, thể hiện ở các cấp khác nhau. Giữa các bộ phận cấu thành hệ thống, bao giờ cũng có một bộ phận giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân, làm động lực thúc đẩy và dẫn dắt cả hệ thống vận hành theo một mục tiêu hoặc một phương hướng xác định. Đây là bộ phận hạt nhân lãnh đạo cả hệ thống chính trị. Bên cạnh những nét tương đồng về hệ thống chính trị của Việt Nam, hệ thống chính trị nước CHDCND Lào có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị Lào ra đời cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước Lào.
Thứ hai, hệ thống chính trị Lào do Đảng Nhân dân cách mạng Lào lãnh đạo. Đặc thù này được quy định bởi vai trò, vị trí, khả năng lãnh đạo, uy tín lãnh đạo của Đảng.
Thứ ba, đối với hệ thống chính trị Lào, tổ chức bộ máy nhà nước có những đặc thù riêng biệt theo mô hình kiêm nhiệm của cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt, vừa lãnh đạo cơ quan của Đảng, vừa đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. 
3. Các thể chế chính trị của hệ thống chính trị ở Lào
Trong thời gian qua, cả Lào và Việt Nam đều thực hiện công cuộc đổi mới, trong đó lấy phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3.1. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
Được thành lập từ ngày 22 tháng 3 năm 1955, tiền thân là Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào là chính đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện các tổ chức chính trị của Lào và đất nước Lào.
3.2. Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân. Tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì lợi ích của nhân dân mà nền tảng là giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức.
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Chính quyền địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân các dân tộc là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, là cơ quan lập pháp, thực hiện chức năng thông qua Hiến pháp và pháp luật, quyết định các vấn đề cơ bản, quan trọng của quốc gia và giám sát tối cao việc tôn trọng và thực hiện Hiếp pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước[8].
Quốc hội có quyền bầu hoặc bãi nhiệm Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, các uỷ viên Ban Thường vụ Quốc hội; bầu hoặc bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước theo kiến nghị của Ban thường vụ Quốc hội; xem xét thông qua kiến nghị bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước; xem xét và thông qua cơ cấu bộ máy của Chính phủ; bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm thành viên Chính phủ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Mỗi khoá Quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm.
Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia nước CHDCND Lào, là người thay mặt nhân dân các dân tộc về mặt đối nội và đối ngoại, là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng - An ninh, thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo độc lập, chủ quyền, ổn định và toàn vẹn lãnh thổ. Chủ tịch nước được Quốc hội bầu với hơn 2/3 tổng số thành viên Quốc hội tham gia tán thành. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Chủ tịch nước nắm giữ vị trí không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp. Chủ tịch nước có Văn phòng Chủ tịch nước[9].
Chính phủ là cơ quan hành chính có chức năng quản lý hành chính Nhà nước về mọi mặt và thống nhất trên toàn quốc và chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Chủ tịch nước[10].
Chính phủ Lào là cơ quan hành pháp cao nhất của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Chính phủ quản lý thống nhất việc thực hiện nhiệm vụ công trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, an ninh-quốc phòng, ngoại giao, văn hoá-xã hội, giáo dục đào tạo, y tế… Chính phủ có nghĩa vụ thực hiện Hiến pháp, pháp luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định và Sắc lệnh của Chủ tịch nước. Chính phủ bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với nhiệm kỳ công tác theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chính phủ gồm 18 Bộ (Quốc phòng;  An ninh; Nội vụ; Ngoại giao; Y tế; Tài chính; Tư pháp; Nông nghiệp và Lâm nghiệp; Công thương; Giáo dục và Thể thao; Khoa học và Công nghệ; Năng lượng và Khai khoáng; Lao động và Phúc lợi xã hội; Thông tin, Văn hóa và Du lịch; Kế hoạch đầu tư; Tài nguyên và Môi trường; Bưu chính, Viễn thông và Thông tin; Công chính và Vận tải và 3 cơ quan ngang Bộ gồm: Ngân hàng Nhà nước Lào, Thanh tra Chính phủ và Văn phòng Thủ tướng.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào phân chia chính quyền địa phương thành ba cấp: cấp tỉnh, huyện và bản. Trong trường hợp cần thiết, có thể tổ chức một vùng đặc biệt theo quyết định của Quốc Hội. Chính quyền địa phương là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương. Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm trước Chính phủ và Hội đồng nhân dân[11].
Tổ chức hành chính tỉnh là Chủ tịch tỉnh, tổ chức hành chính thành phố là Chủ tịch thành phố, tổ chức hành chính huyện là Chủ tịch huyện, tổ chức hành chính thị xã là Chủ tịch thị xã và tổ chức hành chính xã là Chủ tịch xã.
Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân các dân tộc Lào, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện vai trò xem xét việc thông qua các văn bản pháp luật quan trọng, quyết định các vấn đề cơ bản của địa phương và giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền tại địa phương của mình. Hội đồng nhân dân thành lập theo cấp hành chính địa phương, bao gồm hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, bản. Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp bản có thể được thành lập theo quyết định của Quốc hội[12]. Nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo nhiệm kỳ của Quốc hội.
Chính phủ giao trách nhiệm cho cơ quan chính quyền địa phương là người quản lý địa giới, tài nguyên thiên nhiên và nhân dân để bảo vệ và xây dựng địa phương của mình phát triển, giàu có, hạnh phúc.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án nhân dân Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào bao gồm Toà án nhân dân tối cao, Toà án địa phương và Toà án quân sự. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án khác có thể được thành lập theo quyết định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội[13].
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hiện quyền công tố, kiểm sát việc tôn trọng, cưỡng chế thi hành luật trong phạm vi cả nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân bao gồm Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự[14].
3.3. Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Hội Cựu chiến binh Lào, Công đoàn Lào, Hội Liên hiệp phụ nữ Lào, Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng Lào và các tổ chức xã hội khác là nơi tuyên truyền giáo dục, tập hợp khối đại đoàn kết và động viên các tầng lớp nhân dân các dân tộc tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức của mình, có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thành viên của các tổ chức trên[15].
Mặt trận Lào xây dựng đất nước là một bộ phận trong hệ thống chính trị của nước CHDCND Lào mà Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo, vừa là cơ sở chính trị của hệ thống dân chủ nhân dân.
Mặt trận Lào xây dựng đất nước là tổ chức quan trọng về mặt chính trị khắp toàn xã hội, là tổ chức tự nguyện được xây dựng trên cơ sở tự giác của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân đại diện cho các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới tính và độ tuổi nói chung và đại diện cho nhân dân Lào sinh sống ở nước ngoài. Mặt trận Lào xây dựng đất nước kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Lào tự do và Mặt trận Lào yêu nước đã tập hợp khối đại đoàn kết nhân dân các dân tộc tham gia đấu tranh giải phóng đất nước trước đây và thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay[16].
Mặt trận Lào xây dựng đất nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc chính sau đây: (i) Tự giác, tự nguyện; (ii) Thực hiện theo Điều lệ và chương trình thực hiện công tác của MTLXDĐN, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; (iii) Tập trung dân chủ; (iv) Bàn bạc một cách dân chủ, phối hợp và thống nhất trong hoạt động. Hệ thống tổ chức của Mặt trận Lào xây dựng đất nước được tổ chức từ trung ương tới địa phương.
Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào là một tổ chức quần chúng trong hệ thống chính trị của hệ thống dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng nhân dân Cách mạng Lào, là đội tiên phong của thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, có địa vị bằng với tổ chức chính trị của Nhà nước và tổ chức chính trị quần chúng khác[17].
Hội Liên hiệp phụ nữ Lào là một tổ chức quần chúng trong hệ thống chính trị của hệ thống dân chủ nhân dân, là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ - trẻ em và hoạt động dưới quy định của Hiến pháp và pháp luật của nước CHDCND Lào[18].
Công đoàn Lào là một tổ chức quần chúng rộng lớn trong hệ thống chính trị của hệ thống dân chủ nhân dân có Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo, đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của thành viên công đoàn, công nhân và nhân dân lao động khác[19].
Trong hệ thống chính trị còn có những tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực chính trị, là cơ sở chính trị của đảng cầm quyền, được nhà nước bảo trợ, hoạt động tuân theo pháp luật, nhưng mang tính tự nguyện, tự chủ và tự quyết; lôi cuốn nhân dân vào đời sống chính trị; đảm nhận những công việc mà nhà nước không làm được hoặc làm kém hiệu quả.
Cấu trúc của hệ thống chính trị rất đa dạng, nhưng về cơ bản, bao gồm 3 bộ phận: đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân. Trong đó, đảng chính trị khi đã trở thành đảng cầm quyền, có vai trò và vị trí lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Nhà nước là tổ chức quan trọng nhất trong việc thực thi quyền lực chính trị, bằng hệ thống pháp luật buộc mọi người phải tuân thủ; đồng thời có những tổ chức như: quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù,… để bảo đảm pháp luật được thực hiện.
Có thể nói rằng, trong quá trình xây dựng, đổi mới hệ thống chính, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã mang đến cho Việt Nam và Lào những kết quả đáng ghi nhận như:
- Đối với Việt Nam
Ngày càng có sự phân định rõ ràng hơn chức năng và thẩm quyền giữa các bộ phận cấu thành. Sự lãnh đạo của Đảng, phạm vi và thẩm quyền của Nhà nước; sự giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng được xác định rõ ràng, cụ thể hơn.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng đã tập trung vào việc tổ chức quyền lực nhà nước theo hướng: quyền lực thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác định rõ phạm vi thẩm quyền giữa Quốc hội, Chính phủ. Các cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy nhà nước từng bước được hoàn thiện, trong đó hoạt động giám sát, chất vấn của Quốc hội đối với Chính phủ đang dần đi vào thực chất, có hiệu ứng nhất định đối với xã hội. Tính độc lập xét xử của Tòa án và quá trình tố tụng đang được hoàn thiện, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án.
- Đối với Lào
Tổ chức bộ máy nhà nước có những đặc thù riêng biệt theo mô hình kiêm nhiệm của cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt, vừa lãnh đạo cơ quan của Đảng, vừa đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Thời gian qua, mô hình này đã phát huy vai trò, giành được nhiều thắng lợi to lớn, góp phần thúc đẩy phát triển đất nước.
Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng anh em có quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác đặc biệt lâu đời, luôn luôn mong muốn vun đắp cho quan hệ và truyền thống tốt đẹp đó ngày một đơm hoa kết trái. Cả hai nước đều là những nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị... Bên cạnh sự gần gũi về địa lý, mối quan hệ tương giao về văn hóa cũng như sự hợp tác phát triển kinh tế bền chặt, Việt Nam và Lào có những điểm tương đồng nhất định về mô hình hệ thống chính trị cũng như bộ máy Nhà nước Lào và Việt Nam.
Trong thời gian tới, Việt Nam và Lào tiếp tục đoàn kết, phát huy những truyền thống quý báu, học hỏi kinh nghiệm xây dựng và phát triển đất nước, trong đó có việc xây dựng Đảng và tổ chức hệ thống chính trị, từ đó định hướng đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành./.
 
 

[1] Nguyên Như Ý, Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2010, trang 279.
[2] Xem Điều 10, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013; Điều lệ Công đoàn Việt Nam được thông qua tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XI (nhiệm kỳ 2013 - 2018);
[3] Xem Điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Khóa X,  được Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X thông qua ngày 12/12/2012
[4] Xem Điều lệ Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, thông qua tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII ngày 09/3/2017
[5] Xem Điều lệ Hội nông dân Việt Nam, thông qua tại Đại hội đại biểu Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VI
[6]  Xem Điều 3 Pháp lệnh Cựu chiến binh số 27/2005/PL-UBTVQH11
[7] Xem Điều 7 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015
[8] Xem Điều 52 Hiến pháp CHDCND Lào 2015; Điều 2 Luật Quốc hội Lào 2015.
[9] Xem Điều 65, Điều 66 Hiến pháp CHDCND Lào 2015.
[10] Xem Điều 69 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015, Điều 2 Luật Chính phủ CHDCND Lào 2003.
[11] Xem Điều 85, Điều 86 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015; Điều 2 Luật Chính quyền địa phương 2003.
[12] Xem Điều 76 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015.
[13] Xem Điều 90, Điều 91 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015.
[14] Xem Điều 99, Điều 100 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015.
[15] Xem Điều 7 Hiến pháp nước CHDCND Lào 2015.
[16] Xem Điều 2, Điều 3 Luật Mặt trận xây dựng đất nước Lào 2009.
[17]  Xem Điều 2, Điều 7 Luật Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào 2017.
[18] Xem Điều 2, Điều 7 Luật Hội Liên hiệp phụ nữ Lào 2013.
[19] Xem Điều 2, Điều 8  Luật Công đoàn Lào 2017.

Tác giả bài viết: Nhóm tác giả: Ths. Hoàng Thị Thu Phương; CN. Nguyễn Thị Hương; CN. Đoàn Công Thiên