Một số hạn chế, bất cập của Luật Tố cáo năm 2018 qua thực tiễn áp dụng

Hoàng Thị Thu Phương[1]
Luật Tố cáo năm 2018 ra đời với nhiều điểm đổi mới so với Luật năm 2011, đã góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác tiếp nhận, giải quyết và xử lý tố cáo. Sự ra đời của Luật không chỉ nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tố cáo mà còn củng cố niềm tin của Nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực tế, vẫn còn một số quy định bộc lộ bất cập, gây khó khăn trong áp dụng, đòi hỏi cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện.
Thứ nhất, về khái niệm tố cáo
Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: (i) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; (ii) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”.
Xoay quanh khái niệm này, có thể nhận thấy một số vấn đề nổi bật.
Theo lý luận pháp lý, “vi phạm pháp luật” là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, không phải hành vi “trái pháp luật” nào cũng được coi là “vi phạm pháp luật”, vì việc xác định điều đó thuộc thẩm quyền của cơ quan chức năng. Người tố cáo, trong nhiều trường hợp, không đủ điều kiện về nhân lực và vật lực để xác định chính xác một hành vi có vi phạm pháp luật hay không. Trên thực tế, việc xác định hành vi vi phạm đòi hỏi quá trình điều tra, chứng minh, xét xử… những công đoạn nằm ngoài khả năng của cá nhân tố cáo.
Ngoài ra, khái niệm tố cáo trong Luật Tố cáo 2018 vẫn chưa thật sự đồng bộ với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 khi quy định rằng: “Mọi người có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Đáng chú ý, điểm c khoản 2 Điều 9 Luật Tố cáo 2018 quy định người tố cáo “phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình”. Quy định này có thể hạn chế quyền tố cáo, bởi trong thực tế, không phải cá nhân nào cũng có khả năng thu thập đủ chứng cứ để chứng minh hành vi vi phạm. Do đó, việc buộc họ chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung tố cáo có thể khiến người dân e ngại, làm giảm hiệu quả của cơ chế bảo vệ quyền tố cáo.
Từ những bất cập nêu trên, có thể đề xuất hoàn thiện khái niệm tố cáo theo hướng nhấn mạnh yếu tố “hành vi trái pháp luật” thay vì “vi phạm pháp luật”, như sau: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Thứ hai, về chủ thể có quyền tố cáo
Khoản 4 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Người tố cáo là cá nhân thực hiện việc tố cáo”. Điều này cho thấy, khác với khiếu nại, cả cá nhân, tổ chức đều có thể thực hiện quyền thì trong tố cáo, chỉ cá nhân mới có quyền thực hiện. Quy định này nhằm cá thể hóa trách nhiệm của người tố cáo, đặc biệt trong trường hợp tố cáo sai sự thật.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng nên mở rộng chủ thể tố cáo cho cả cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, với tư cách pháp nhân, các tổ chức hoàn toàn có thể chịu tác động của hành vi vi phạm pháp luật và có quyền, nghĩa vụ trong việc đấu tranh bảo vệ trật tự xã hội. Việc mở rộng này cũng góp phần nâng cao trách nhiệm cộng đồng trong công tác phát hiện, ngăn chặn vi phạm.
Dù vậy, xét trên phương diện thực tiễn và nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, quy định chỉ cho phép cá nhân được quyền tố cáo là phù hợp. Nếu mở rộng cho tổ chức, sẽ nảy sinh khó khăn trong việc xác định trách nhiệm pháp lý khi tố cáo sai sự thật.
Ngoài ra, giữa Luật Tố cáo 2018 và Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 vẫn tồn tại sự thiếu nhất quán. Trong khi Luật Tố cáo chỉ công nhận cá nhân có quyền tố cáo, thì Luật Phòng, chống tham nhũng lại sử dụng thêm thuật ngữ “phản ánh hành vi tham nhũng”, bao hàm cả cá nhân và tổ chức. Điều này dẫn đến chồng chéo và khó phân biệt giữa “tố cáo” và “phản ánh”. Do đó, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể để phân định rõ hai hình thức này, cũng như có cơ chế bảo vệ phù hợp cho người phản ánh hành vi tham nhũng.
Thứ ba, về hình thức tố cáo
Điều 22 Luật Tố cáo 2018 quy định hai hình thức tố cáo: trực tiếp và bằng đơn. Tuy nhiên, cách quy định này còn chưa rõ ràng. Khi người tố cáo đến trực tiếp cơ quan có thẩm quyền và được hướng dẫn viết đơn, thì thực chất đây vẫn là hình thức tố cáo bằng văn bản, chứ không phải tố cáo trực tiếp.
Để bảo đảm tính nhất quán và rõ ràng, cần sửa đổi theo hướng:
“Việc tố cáo được thực hiện bằng văn bản (đơn tố cáo) hoặc bằng lời nói trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo.”
Bên cạnh đó, các quy định hiện hành vẫn còn hạn chế trong việc đa dạng hóa phương thức tiếp nhận tố cáo. Luật nên mở rộng để người dân có thể thực hiện tố cáo qua nhiều kênh như bưu điện, thư điện tử, điện thoại, ghi âm hoặc hệ thống trực tuyến, nhằm tạo thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền tố cáo.
Thứ tư, về bảo vệ người tố cáo
Một là, chủ thể được bảo vệ
Theo Điều 47 Luật Tố cáo 2018, người được bảo vệ bao gồm: người tố cáo và các thân nhân trực hệ (vợ, chồng, cha mẹ, con cái). So với Luật Tố cáo 2011 vốn mở rộng đến cả “người thân thích và người cung cấp thông tin liên quan đến tố cáo” quy định mới có phần thu hẹp phạm vi bảo vệ.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam vẫn phổ biến mô hình gia đình nhiều thế hệ, quy định này chưa thật sự toàn diện. Những người thân khác như ông bà, cô chú, hoặc người cung cấp thông tin vẫn có thể bị đe dọa, trù dập nhưng lại không được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần xem xét mở rộng phạm vi bảo vệ tương tự tinh thần của Luật Tố cáo 2011.
Hai là, phạm vi và cơ chế bảo vệ
Hiện nay, vấn đề bảo vệ người tố cáo được điều chỉnh rải rác trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp 2013, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018, Luật Tố cáo 2018, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017)... Tuy nhiên, giữa các văn bản này vẫn thiếu sự thống nhất. Cụ thể, các hành vi bị cấm và biện pháp bảo vệ chưa được đồng bộ; việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo cho cơ quan khác (như cơ quan thanh tra) khiến việc bảo vệ người tố cáo trở nên phức tạp. Luật không quy định rõ thẩm quyền bảo vệ trong trường hợp này, dẫn đến lúng túng khi triển khai; quy định về việc “bố trí công tác khác” cho người được bảo vệ còn mơ hồ, chưa làm rõ tiêu chí, mức lương hay tính phù hợp của vị trí mới. Nếu không cụ thể hóa, biện pháp bảo vệ này khó được áp dụng hiệu quả.
Từ những vấn đề nêu trên, cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung các quy định của Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng theo hướng thống nhất, rõ ràng hơn, vừa bảo đảm quyền lợi của người tố cáo, vừa tăng cường tính khả thi của cơ chế bảo vệ.
Nhìn chung, Luật Tố cáo năm 2018 đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về quyền tố cáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thực tiễn, nhiều quy định vẫn cần được điều chỉnh, đặc biệt ở các khía cạnh: khái niệm tố cáo, chủ thể thực hiện quyền, hình thức tố cáo và cơ chế bảo vệ người tố cáo. Việc tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo không chỉ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn là bước đi cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng và củng cố niềm tin của Nhân dân vào công lý và pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.


[1] Khoa Đào tạo cơ sở, Trường Cao đẳng Luật miền Trung