Một số vấn đề thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn tại tỉnh Quảng Bình và kiến nghị
- Thứ năm - 26/06/2025 09:40
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Th.S Phan Thị Phương Huyền - Th.S Lê Thị Ngọc Cẩm
Đặt vấn đề:Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ việc về ly hôn bên cạnh việc giải quyết vấn đề về tài sản chung. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả nghiên cứu, phản ảnh một số vấn đề về thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn tại tỉnh Quảng Bình. Trên cơ sở đó, bài viết hướng đến mục tiêu nhận diện các khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi trong thực tế.
1. Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn tại tỉnh Quảng Bình
Pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con thường được áp dụng và xét xử chung cùng với án ly hôn. Đây là một trong những chế định đảm bảo sự ràng buộc pháp lý về nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con khi ly hôn trong trường hợp không trực tiếp nuôi dưỡng. Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn áp dụng pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn tại tỉnh Quảng Bình vẫn tồn tại một số vướng mắc sau đây:
Thứ nhất, pháp luật hiện nay chưa có quy định rõ về điều kiện "có tài sản để tự nuôi mình" của con đã thành niên được hưởng cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 110 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Tức là nếu con đã thành niên không có khả năng lao động nhưng con lại có tài sản để tự nuôi sống mình thì cha mẹ không có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho con. Tuy nhiên, pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn nào để xác định con được cấp dưỡng có tài sản để tự nuôi mình, việc pháp luật không quy định rõ có thể dẫn đến nhiều cách hiểu và hiểu sai tinh thần của luật, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình xét xử của Tòa án nhân dân các cấp.[1]
Thứ hai, về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định tại Điều 118 về thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng chưa quy định về thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là từ khi nào, điều này dẫn tới thực tiễn áp dụng tại các Tòa án có sự khác nhau. Một số bản án Tòa án không ghi thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, một số bản án có ghi thời điểm nhưng lại không có sự thống nhất giữa các Tòa án với nhau. Ví dụ điển hình qua các bản án sau:
- Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 30/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa nguyên đơn là chị Phan Thị Hải Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn là anh Nguyễn Thế C và cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn là 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Bản án chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn, con chung do nguyên đơn nuôi dưỡng và bị đơn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung số tiền 2.000.000 đồng/ tháng kể từ tháng 9 năm 2024 đến khi con chung 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.
- Bản án số 14/2024/HNGĐ-PT ngày 25/11/2024 của Tòa án nhân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm về việc “Thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con” do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 29/2024/HNGĐ-ST ngày 23/9/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới bị kháng cáo, theo đó nguyên đơn chị Nguyễn Thị N yêu cầu bị đơn là anh Dương Ngọc Q thay đổi tiền cấp dưỡng từ 1.500.000 đồng lên 5.000.000 đồng. Tại Bản án sơ thẩm số 29/2024/HNGĐ-ST ngày 23/9/2024 chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị N, buộc anh Q cấp dưỡng mỗi tháng là 2.000.000 đồng, thời gian cấp dưỡng là sau khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con tròn 18 tuổi. Nguyên đơn tiếp tục kháng cáo bản án sơ thẩm đề nghị cấp phúc thẩm tăng tiền nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm, thời điểm thực hiện cấp dưỡng từ tháng 12 năm 2024 cho đến khi con chung của nguyên đơn và bị đơn tròn 18 tuổi.[2]
- Bản án số 12/2024/HNGĐ-PT ngày 24/9/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm về việc “Thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con” do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 12/2024/HNGD-ST của Tòa án nhân dân huyện Tuyên hóa, tỉnh Quảng Bình bị kháng cáo, theo đó nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T yêu cầu bị đơn là anh Trần Thanh L thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con từ 1.000.000 đồng/tháng lên 3.000.000 đồng/tháng. Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa quyết định buộc anh L cấp dưỡng mỗi tháng 2.500.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung của nguyên đơn và bị đơn tròn 18 tuổi. Nguyên đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm đề nghị tăng mức cấp dưỡng lên 3.000.000 đồng/ tháng, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm thời điểm thực hiện cấp dưỡng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (05/6/2024) cho đến khi con chung tròn 18 tuổi.[3]
Qua các bản án trên, có thể thấy thời điểm thực hiện cấp dưỡng được xác định không giống nhau, một số Tòa án xác định kể từ thời điểm tuyên án, một số Tòa án lại xác định kể từ thời điểm bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Do đó, cần có những quy định thống nhất về thời điểm thực hiện cấp dưỡng.
Thứ ba, về chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Điều 282: “Nghĩa vụ được thực hiện theo định kỳ theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ; Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về phương thức cấp dưỡng: “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.”; Quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: “1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.
Theo đó, việc chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền cũng được hiểu là chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, theo quan điểm của nhóm tác giả cho rằng chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phải chịu tiền lãi chậm theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng không giống nhau giữa các Tòa án, quan điểm các thẩm phán có sự khác nhau, có Tòa xác định ngay trong bản án, có Tòa lại không ghi vào bản án, điều này thiếu cơ sở cho việc yêu cầu thi hành án, gây khó khăn cho đương sự. Minh chứng cho điều này qua các bản án sau:
- Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 30/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa nguyên đơn là chị Phan Thị Hải Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn là anh Nguyễn Thế C và cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn là 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Bản án chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn, con chung do nguyên đơn nuôi dưỡng và bị đơn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung số tiền 2.000.000 đồng/ tháng kể từ tháng 9 năm 2024 đến khi con chung 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án. Nếu bên phải thi hành không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì còn phải chịu tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
- Bản án số 12/2024/HNGĐ-ST ngày 5/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tuyên hóa, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm vụ án “Thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con” giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu T yêu cầu bị đơn là anh Trần Thanh L thay đổi tiền cấp dưỡng nuôi con từ 1.000.000 đồng/tháng lên 3.000.000 đồng/tháng. Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa quyết định buộc anh L cấp dưỡng mỗi tháng 2.500.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung của nguyên đơn và bị đơn tròn 18 tuổi và không ghi rõ về nghĩa vụ trả lãi khi chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn
Để hoàn thiện pháp luật và tăng tính hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn có hiệu quả, nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần có hướng dẫn cụ thể các điều kiện của người được cấp dưỡng là con đã thành niên đặc biệt là quy định và “không có tài sản để tự nuôi mình”, theo đó nên bổ sung theo hướng: “Con đã thành niên không có tài sản để tự nuôi mình là con từ 18 tuổi trở lên, thực tế không có tài sản hoặc có tải sẽn nhưng tài sản đó không đủ để tự nuôi sống bản thân”.[4]
Thứ hai, cần có quy định và hướng dẫn thống nhất của Tòa án cấp trên đối với hệ thống Tòa án về xác định thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và buộc ghi vào bản án, quyết định của Tòa án làm cơ sở cho đương sự yêu cầu thực hiện nghĩa vụ nhằm đảm bảo về quyền lợi cho các đương sự.
Thứ ba, buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Quan điểm nhóm tác giả đề xuất trong Bản án, quyết định của Tòa án có quyết định về cấp dưỡng phải buộc người chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả xét xử của hệ thống Tòa án nhân dân bằng việc nhận thức đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong vấn đề nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly hôn; tuân thủ các hướng dẫn của Tòa án nhân dân cấp trên về quan điểm xét xử; bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án và Hội thẩm nhân dân.
Thứ năm, chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về hôn nhân gia đình cho các đương sự đặc biệt nhận thức về nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con khi ly hôn, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của con.
Kết luận: Bài viết đã đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con tại địa phương, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Trong đó, nhấn mạnh đến việc hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan, nâng cao nhận thức pháp lý của người dân, tăng cường vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc bảo đảm quyền được nuôi dưỡng của trẻ em sau ly hôn không chỉ là trách nhiệm riêng của cha, mẹ mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
3. Lăng Thị Minh Huệ, Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và thực tiễn thực hiện, Luận văn thạc sĩ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội, 2022.
4. Các bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa.
[1] Lăng Thị Minh Huệ, Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và thực tiễn thực hiện, Luận văn thạc sĩ luật học (2022), Trường Đại học Luật Hà Nội, tr54
[2] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1680473t1cvn/chi-tiet-ban-an
[3] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta1616451t1cvn/chi-tiet-ban-an
[4] Lăng Thị Minh Huệ, Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và thực tiễn thực hiện, Luận văn thạc sĩ luật học (2022), Trường Đại học Luật Hà Nội, tr62.