17:29 ICT Thứ năm, 06/11/2025 1
     

    Chuyên mục

    thành viên

    Lượt truy cập

    • Đang truy cập: 219
    • Khách viếng thăm: 218
    • Máy chủ tìm kiếm: 1
    • Hôm nay: 74160
    • Tháng hiện tại: 551137
    • Tổng lượt truy cập: 104249134

    Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu khoa học » Nghiên cứu trao đổi

    Một số ý kiến góp ý Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

    Chủ nhật - 25/05/2025 09:30

    Hoàng Thị Thu Phương, Nguyễn Thị Ngọc Hoài[1]
    Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 195/2025/QH15 tổ chức xây dựng dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (viết tắt là Dự thảo). Dự thảo gồm có 2 Điều: Điều 1 gồm 08 khoản sửa đổi, bổ sung một số quy định của Hiến pháp năm 2013 về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương và Điều 2 gồm 03 khoản quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. Có thể thấy, trong bối cảnh kỷ nguyên mới, tinh gọn, hiệu lực hiệu quả thì việc sửa đổi Hiến pháp là cần thiết và phù hợp với tình hình mới của đất nước. Lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 chỉ có 8/120 Điều nhưng lại có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý thực hiện tinh giản bộ máy, thống nhất các tổ chức chính trị - xã hội vào Mặt trận tổ quốc Việt Nam tránh chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ; thực hiện sắp xếp theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Để Dự thảo được hoàn thiện, nhóm tác giả góp ý như sau:
    Thứ nhất, để bảo đảm sự kế thừa hợp lý của các bản Hiến pháp trước đây và phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Dự thảo tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò của tổ chức công đoàn, sửa đổi, bổ sung Điều 10 theo hướng khẳng định Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đồng thời, bổ sung nhiệm vụ của Công đoàn Việt Nam tại Điều 10 của Dự thảo là đại diện của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn. Việc bổ sung nhiệm vụ “đại diện cấp quốc gia” của Công đoàn là phù hợp với bối cảnh hiện nay, nâng tầm vị thế của tổ chức Công đoàn, củng cố vai trò của Công đoàn trong hệ thống đại diện người lao động, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
    Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 9 Dự thảo quy định: “Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…”. Trong khi đó, Điều 10 Dự thảo tiếp tục quy định: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, trực thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…” là trùng lặp từ, không cần thiết. Vì vậy, Điều 10 Dự thảo sửa đổi theo hướng: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên công đoàn và người lao động…”
    Thứ hai, khoản 1 Điều 110 Dự thảo được sửa đổi, bổ sung như sau: “1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” để phù hợp với khoản 8 Điều 74 và khoản 4 Điều 96 Hiến pháp hiện nay. Tuy nhiên, hiểu như thế nào là đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Không ai khẳng định rằng với cụm từ “đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” là một cấp hay hai cấp và tên gọi của đơn vị hành chính này sẽ không thống nhất trên phạm vi cả nước. Do đó, nhóm tác giả đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 110 Dự thảo theo hướng: “1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính cơ sở”.
    Đồng thời, tại Điều 110 Dự thảo nên tiếp tục giữ quy định: “Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” trong Hiến pháp hiện hành.
    Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân địa phương. Các quyền về đất đai, tài sản, phong tục, tập quán và thói quen sinh hoạt…cũng đều có liên quan. Vì vậy, cần phải tôn trọng ý kiến của Nhân dân, bảo đảm tính đồng thuận, ổn định xã hội, tránh phản ứng từ phía Nhân dân. Mặt khác, Hiến pháp là đạo luật gốc, khẳng định bản chất và nguyên tắc dân chủ, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; xét về lâu dài, cần giữ lại để đảm bảo nguyên tắc dân chủ trực tiếp. Những bất cập từ việc lấy ý kiến của nhân dân tồn tại lâu nay là ở cách thức thực hiện, do vậy việc lấy ý kiến đôi khi mang tính hình thức, lại gây tốn kém và làm chậm quy trình. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này thì cần thiết nghiên cứu thay đổi phương pháp, cách thức thực hiện, chứ không nên bỏ quy định đó.
    Thứ ba,, tại khoản 2 Điều 111 Dự thảo quy định: “2. Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định.”. Quy định này cho phép chúng ta hiểu rằng chính quyền địa phương sẽ được tổ chức linh hoạt ở mỗi địa phương phụ thuộc vào đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Do đó, nhóm tác giả đề xuất sửa khoản 2 Điều 111 Dự thảo theo hướng: “2. Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.”
    Thứ tư, tại khoản 2 Điều 115 Dự thảo sửa đổi đã loại bỏ quyền chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) đối với Chánh án Tòa án nhân dân (TAND) và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp. Tuy nhiên nhóm tác giả nhận định việc quyền chất vấn của Đại biểu HĐND là cần thiết và có cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc. Quy định này không chỉ khẳng định vai trò của đại biểu HĐND trong thiết chế giám sát quyền lực nhà nước ở địa phương mà còn góp phần thể chế hóa nguyên tắc kiểm soát quyền lực, một nguyên tắc nền tảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua quyền chất vấn của  HĐND - với tư cách là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân có thể theo dõi, đánh giá và yêu cầu giải trình đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp tại địa phương, đảm bảo hoạt động xét xử và kiểm sát được thực hiện công minh, đúng pháp luật và gắn bó mật thiết với đời sống của Nhân dân.
    Tuy nhiên, việc chấm dứt hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện[2], thay bằng mô hình tòa án và viện kiểm sát khu vực tổ chức theo hướng liên huyện, hoạt động trên phạm vi rộng hơn và không còn gắn bó hữu cơ với đơn vị hành chính cấp huyện như trước. Điều này làm phát sinh khoảng trống về mặt thể chế giám sát, bởi nếu không còn tổ chức HĐND cấp huyện tương ứng, thì sẽ không còn chủ thể trực tiếp thực hiện quyền chất vấn đối với các chức danh tư pháp cấp huyện vốn được Hiến pháp quy định tại khoản 2 Điều 115. Một giải pháp linh hoạt là tổ chức các phiên chất vấn chuyên đề, dưới hình thức giải trình trước Thường trực HĐND hoặc các Ban của HĐND, có mời Chánh án hoặc Viện trưởng khu vực đến báo cáo và trả lời. Trong các phiên này, Chánh án TAND khu vực hoặc Viện trưởng VKSND khu vực có thể được mời tham dự để trình bày, báo cáo và trả lời chất vấn công khai. Mô hình này không chỉ duy trì được nguyên tắc trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động tư pháp, mà còn phù hợp với thực tiễn tổ chức mới, tạo điều kiện để HĐND thực hiện đầy đủ chức năng giám sát của mình trong bối cảnh thay đổi về tổ chức bộ máy nhà nước.
    Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 là bước đi quan trọng nhằm cụ thể hóa chủ trương tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Với tinh thần xây dựng, nhóm tác giả kỳ vọng những góp ý này sẽ góp phần hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, bảo đảm tính dân chủ, pháp quyền và phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước trong thời kỳ mới./.
    Tài liệu tham khảo
    1. Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
    2. Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
    3. Bản thuyết trình về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
    4. Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Ban chấp hành trung ương về Hội nghị lần thứ 11 ban chấp hành trung ương Đảng khóa XIII.


    [1] Giảng viên Trường Cao đẳng Luật miền Trung
    [2] Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Ban chấp hành trung ương về Hội nghị lần thứ 11 ban chấp hành trung ương Đảng khóa XIII

     

    Hỏi đáp pháp luật

    Hình ảnh hoạt động

    • 1
    • 1
    • 1
    • 1
    • 1

    Liên kết website

    Video

    Trường Trung cấp Luật Đồng Hới- Quảng Bình