17:22 ICT Thứ năm, 06/11/2025 1
     

    Chuyên mục

    thành viên

    Lượt truy cập

    • Đang truy cập: 215
    • Hôm nay: 73867
    • Tháng hiện tại: 550844
    • Tổng lượt truy cập: 104248841

    Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu khoa học » Nghiên cứu trao đổi

    Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới

    Thứ tư - 20/08/2025 09:08

    ThS. Lê Thị Ngọc Cẩm
    Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, con người luôn là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, đi cùng với quá trình lao động là những rủi ro tiềm ẩn có thể gây tai nạn lao động (TNLĐ) hoặc bệnh nghề nghiệp (BNN), ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng và khả năng làm việc của người lao động (NLĐ). Chính vì vậy, đảm bảo an toàn lao động (ATLĐ) và vệ sinh lao động (VSLĐ) đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phòng ngừa, ngăn chặn các yếu tố nguy hiểm, độc hại tại nơi làm việc. Trên thế giới, vấn đề ATLĐ luôn được quan tâm sâu sắc và được thể chế hóa trong nhiều công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Ở Việt Nam, cùng với quá trình hội nhập và phát triển, pháp luật về ATLĐ đã không ngừng hoàn thiện, từng bước tiệm cận với chuẩn mực quốc tế nhằm bảo vệ tốt hơn quyền được làm việc trong điều kiện an toàn, lành mạnh của NLĐ.
    Trong quá trình làm việc, con người luôn phải chịu tác động của điều kiện lao động tiềm ẩn những rủi ro có thể gây ra TNLĐ, thậm chí là tử vong. ATLĐ và VSLĐ là hai phạm trù không thể tách rời trong quá trình lao động tạo ra sản phẩm, đảm bảo an toàn tính mạng và sức khỏe nghề nghiệp cho NLĐ. Để bảo vệ con người một cách tốt nhất, từng phạm trù phải được thực hiện một cách hiệu quả, và trước hết, ATLĐ phải được đảm bảo để phòng tránh TNLĐ, BNN. Trên phương diện quốc tế, ILO đã xây dựng nhiều Công ước, Khuyến nghị liên quan đến ATLĐ như Công ước số 155 về an toàn và sức khỏe nghề nghiệp năm 1981, Nghị định thư năm 2002, Công ước số 167 về an toàn và vệ sinh lao động trong ngành xây dựng năm 1988, Công ước số 148 về môi trường làm việc năm 1977… Trong các văn bản này, ILO không đưa ra khái niệm cụ thể nào về ATLĐ mà thông qua các nội dung khác để có cách hiểu toàn diện về hoạt động ATLĐ. Theo định nghĩa “sức khỏe” tại Công ước số 155 về ATLĐ, VSLĐ và môi trường lao động: “Sức khỏe, liên quan đến công việc, không chỉ là tình trạng không có bệnh tật, mà còn bao gồm cả các yếu tố về thể chất và tinh thần có tác động đến sức khỏe và có liên quan trực tiếp đến an toàn và vệ sinh lao động”. Hay tại định nghĩa chung về sức khỏe nghề nghiệp giữa ILO và WHO được thông qua bởi Ủy ban về sức khỏe nghề nghiệp tại phiên họp đầu tiên vào năm 1950, được sửa đổi tại kỳ họp thứ mười hai trong năm 1995, sức khỏe nghề nghiệp phải đạt được ba mục tiêu khác nhau: (i) Duy trì và nâng cao sức khỏe NLĐ và khả năng lao động; (ii) Cải thiện môi trường làm việc để việc làm trở thành an toàn và có lợi cho sức khỏe; (iii) Phát triển văn hóa làm việc theo hướng đảm bảo sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc, khi đạt được các yếu tố trên sẽ thúc đẩy một môi trường xã hội tích cực, hoạt động trơn tru và có thể nâng cao năng suất lao động[1]. Từ các nội dung trên có thể thấy, để có sức khỏe nghề nghiệp, hoạt động ATLĐ sẽ phải tuân thủ các yêu cầu về ATLĐ theo đúng quy định cảu pháp luật và việc tuân thủ này là trách nhiệm và nghĩa vụ của NSDLĐ, đồng thời, NLĐ cần được chỉ đạo và cam kết thực hiện các hoạt động ATLĐ cũng như được tạo điều kiện để thiết lập hệ thống ATLĐ tại cơ sở.
    Không chỉ các tổ chức quốc tế mà các quốc gia trên thế giới đều mong muốn xây dựng một xã hội phát triển bền vững thông qua việc tạo dựng môi trường làm việc an toàn và lành mạnh, cân bằng giữa bảo vệ sức khỏe và cơ hội việc làm, cải thiện đời sống và sức khỏe cho NLĐ. Có thể kể đến một số quốc gia tiêu biểu, đi đầu trong việc nghiên cứu chính sách về ATLĐ nhằm đảm bảo sức khỏe và tính mạng của NLĐ như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… Cụ thể:
    Tại Mỹ, Luật An toàn và sức khỏe nghề nghiệp năm 1970 (Chapter 15 - Occupational safety and Health) không đưa ra khái niệm về ATLĐ mà định nghĩa về “tiêu chuẩn về ATLĐ và sức khỏe nghề nghiệp”, theo đó, các tiêu chuẩn này yêu cầu phải có điều kiện, được thừa nhận, sử dụng một hoặc nhiều phương tiện, phương pháp, quy trình hợp lý, cần thiết, thích hợp để cung cấp một công việc và môi trường làm việc an toàn và lành mạnh.
    Tại Estonia, Luật An toàn và Sức khỏe nghề nghiệp không đưa ra một định nghĩa cụ thể về ATLĐ mà đưa ra quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động (NSDLĐ), NLĐ, cũng như vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc đảm bảo ATLĐ[2].
    Nhật Bản có hai đạo luật tiêu biểu cho chính sách chăm sóc, bảo vệ an toàn, sức khỏe của NLĐ là Luật An toàn và sức khỏe công nghiệp và Luật Tiêu chuẩn lao động. Tuy không có định nghĩa thế nào là ATLĐ nhưng Luật đã đề ra những trường hợp NLĐ bị thương, bệnh tật hoặc thiệt mạng vì các công trình, thiết bị, nguyên vật liệu, khí, hơi… trong lao động hoặc do công việc yêu cầu sự có mặt của NLĐ; hệ thống các tiêu chuẩn phòng ngừa yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc; trách nhiệm của các thành viên trong quan hệ lao động. Mục đích của những đạo luật này nhằm đảm bảo an toàn và sức khỏe của NLĐ ở nơi làm việc, cũng như để tạo ra môi trường làm việc thoải mái bằng cách thúc đẩy các biện pháp phòng ngừa TNLĐ một cách toàn diện và hệ thống.
    Tại Latvia, Luật An toàn và Sức khỏe nghề nghiệp cũng chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về ATLĐ mà đưa ra quy định trách nhiệm toàn diện của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm an toàn lao động thông qua việc đánh giá rủi ro, tổ chức huấn luyện, cung cấp trang thiết bị bảo hộ và giám sát thực thi[3].
    Tương tự như vậy, ở Hàn Quốc, các nhà xây dựng pháp luật không đưa ra một định nghĩa cụ thể về ATLĐ mà đưa ra những quy định về TNLĐ, BNN với mục đích duy trì và thúc đẩy môi trường làm việc an toàn cho NLĐ thông qua việc phòng ngừa TNLĐ, BNN bằng cách xây dựng và đảm bảo thực hiện những tiêu chuẩn về an toàn và sức khỏe lao động.
    Tại Việt Nam, để bảo vệ an toàn tính mạng và sức khỏe của NLĐ, đồng thời thực hiện thông lệ quốc tế, Nhà nước đã xây dựng hệ thống các quy định về ATLĐ, tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, ATLĐ lại được ghi nhận ở một mức độ khác nhau. Trước đây, ATLĐ được quy định là một bộ phận nhỏ trong chế định bảo hộ lao động, theo đó, “Bảo hộ lao động bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định các điều kiện lao động an toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hoặc khắc phục những yếu tố nguy hiểm, độc hại trong môi trường lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân cách NLĐ”[4]. Theo nghĩa rộng, bảo hộ lao động là tổng hợp các quy định về việc bảo vệ NLĐ khi tham gia quá trình lao động, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của NLĐ. Theo nghĩa hẹp, bảo hộ lao động được hiểu là những quy định của Nhà nước liên quan đến việc đảm bảo ATLĐ, VSLĐ và các chế độ lao động khác nhằm bảo vệ nhân cách của NLĐ. Theo đó, ATLĐ chỉ là một nội dung của bảo hộ lao động còn bảo hộ lao động được hiểu là những quy định của nhà nước liên quan đến việc đảm bảo ATLĐ và các chế độ lao động khác nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và trong một số trường hợp nhằm bảo vệ nhân cách của NLĐ. Nội dung của bảo hộ lao động không chỉ là các quy định về ATLĐ mà còn bao gồm quy định về vệ sinh lao động; các nội dung nhằm bảo đảm điều kiện lao động như những quy định về tiền lương, thời giờ làm việc nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội... Điều này dẫn đến có sự trùng lặp, khó phân biệt với các nội dung khác của pháp luật lao động. Vì vậy, nhằm thống nhất về thuật ngữ với những khái niệm khác nhau, ATLĐ được thống nhất sử dụng với nội dung quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn ATLĐ, các biện pháp bảo vệ sức khoẻ cho NLĐ, quy định về TNLĐ, BNN, khắc phục hậu quả của TNLĐ, BNN và một số quy định riêng đối với lao động đặc thù. Từ khi Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 ra đời cho đến nay, dù ban hành muộn hơn các nước phát triển trên thế giới nhưng đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của luật chuyên ngành trong việc bảo đảm an toàn, sức khỏe cho NLĐ. Theo đó, Luật đã định nghĩa một cách chi tiết những thương tổn mà điều kiện lao động tác động xấu tới NLĐ, cụ thể: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”“Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp tác động đối với NLĐ”[5]. Để hạn chế được những tác động xấu này, một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là công tác ATLĐ phải được nâng cao và thực hiện có chất lượng, “An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người trong quá trình lao động”[6]. Đây là một chế định pháp luật tập hợp các quy phạm pháp luật quy định các biện pháp phòng, tránh những sự cố có khả năng gây nguy hại cho con người trong quá trình lao động cũng như biện pháp khắc phục hậu quả TNLĐ, BNN và cải thiện điều kiện lao động cho NLĐ.
    Khái niệm ATLĐ được tiếp cận ở nhiều góc độ như kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật hay pháp luật với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Song, về cơ bản có thể hiểu ATLĐ là tập hợp các biện pháp nhằm phòng chống tác động của các YTNH, có hại phát sinh trong quá trình lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho NLĐ. Việc thực hiện tốt ATLĐ sẽ giúp hạn chế, giảm thiểu tối đa những thương tích, thiệt hại về tính mạng và tài sản cho NLĐ cũng như doanh nghiệp. Không chỉ dừng lại ở đó, mục đích của ATLĐ còn thực hiện việc phục hồi kịp thời và duy trì sức khoẻ, khả năng lao động cho NLĐ.
    Dưới góc độ kỹ thuật, “An toàn lao động là tình trạng điều kiện lao động không gây ra sự nguy hiểm trong sản xuất”[7].
    Dưới góc độ ngôn ngữ, ATLĐ là sự kết hợp giữa hai khái niệm “an toàn” và “lao động”, trong đó “an toàn” là “yên ổn trọn vẹn” và “lao động” là “hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội”[8], vì vậy, ATLĐ có thể được hiểu là điều kiện làm việc mà trong quá trình hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần được diễn ra một cách yên ổn trọn vẹn, tránh được những tai nạn có thể xảy ra.
    Dưới góc độ pháp lý, ATLĐ là tổng hợp những quy phạm pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm ATLĐ nhằm ngăn ngừa TNLĐ, BNN và cải thiện điều kiện lao động cho NLĐ.
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Bùi Thị Chuyên (2013), Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam về an toàn, vệ sinh lao đông, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 26.
    2. https://tapchicongthuong.vn/phap-luat-ve-an-toan-lao-dong-o-estonia--phan-lan-va-latvia--so-sanh-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam-141880.htm.
    3. https://tapchicongthuong.vn/phap-luat-ve-an-toan-lao-dong-o-estonia--phan-lan-va-latvia--so-sanh-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam-141880.htm.
    4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 423.
    5. Khoản 8, khoản 9 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
    6. Khoản 2 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015.
    7. TCVN 3153:1979, Hệ thống tiêu chuẩn ATLĐ - Các khái niệm cơ bản - Thuật ngữ và định nghĩa.
    8. Vĩnh Lộc, Bảo Đoan, Ngọc Hạnh, Quỳnh Tâm (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 6, tr. 368.
     
     

    [1] Bùi Thị Chuyên (2013), Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam về an toàn, vệ sinh lao đông, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 26
    [2] https://tapchicongthuong.vn/phap-luat-ve-an-toan-lao-dong-o-estonia--phan-lan-va-latvia--so-sanh-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam-141880.htm
    [3] https://tapchicongthuong.vn/phap-luat-ve-an-toan-lao-dong-o-estonia--phan-lan-va-latvia--so-sanh-va-khuyen-nghi-cho-viet-nam-141880.htm
    [4] Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 423
    [5] Khoản 8, khoản 9 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015
    [6] Khoản 2 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015
    [7] TCVN 3153:1979, Hệ thống tiêu chuẩn ATLĐ - Các khái niệm cơ bản - Thuật ngữ và định nghĩa
    [8] Vĩnh Lộc, Bảo Đoan, Ngọc Hạnh, Quỳnh Tâm (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 6, tr. 368

    Những tin cũ hơn

     

    Hỏi đáp pháp luật

    Hình ảnh hoạt động

    • 1
    • 1
    • 1
    • 1
    • 1

    Liên kết website

    Video

    Trường Trung cấp Luật Đồng Hới- Quảng Bình