Một số bất cập của pháp luật về chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần hiện nay

ThS Nguyễn Thị Hương
Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình doanh nghiệp phổ biến trong thực tiễn hoạt động kinh doanh ngày nay. Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được pháp luật quy định rất rõ ràng trong pháp luật về doanh nghiệp nói chung và pháp luật chuyên ngành nói riêng. Tại Việt Nam, việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được quy định rất sớm trong Luật Công ty năm 1990. Đến khi có thị trường chứng khoán, theo đó pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ra đời thì việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được điều chỉnh bởi luật chung là Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự) và các luật chuyên ngành như Luật Chứng khoán, Luật Ngân hàng… Chính việc một quan hệ giao dịch được điều chỉnh bởi nhiều luật nên đã có những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo trong chuyển nhượng vốn của CTCP là rào cản, hạn chế gây khó khăn cho nhà đầu tư và việc huy động vốn của doanh nghiệp. Nhiều năm trở lại đây, để khắc phục vấn đề này, pháp luật về chuyển nhượng vốn trong CTCP đã được chỉnh sửa bổ sung, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, một số quy định hiện hành về vấn đề này vẫn còn bất cập nhất là khi luật chung chưa đồng bộ cùng luật chuyên ngành đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc thù, có điều kiện như tài chính, bảo hiểm, ngân hàng...
Chính vì vậy, bài viết này sẽ tập trung phân tích những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về chuyển nhượng vốn trong CTCP, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về nhượng vốn trong CTCP.
1. Một số bất cập của pháp luật về chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần
Hoạt động chuyển nhượng vốn là hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục trong CTCP do đặc tính tự do chuyển nhượng của cổ phần. Chuyển nhượng vốn trong CTCP trước hết là mang bản chất của chuyển nhượng, tức là có sự chuyển giao quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác. Bên cạnh đó, do đặc thù của cổ phần nên chuyển nhượng vốn trong CTCP mang đặc trưng riêng. Chuyển nhượng vốn trong CTCP là việc cổ đông chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mà mình đang nắm giữ cho người khác (có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông của công ty)[1]. Xét dưới góc độ pháp lý, đây là một loại giao dịch dân sự, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật chuyên ngành và các quy định chung khác. Bản chất của hành vi chuyển nhượng vốn trong CTCP là sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phần của họ trong công ty. Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP là hành vi làm thay đổi (mua, tặng cho, thừa kế...) số lượng cổ phần mình đang nắm giữ hay nói cách khác là việc chuyển số cổ phần mình đang nắm giữ cho người khác.
Trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển nhượng vốn trong CTCP gặp phải một số khó khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, chuyển nhượng vốn trong CTCP phải đối mặt với rủi ro liên quan đến việc sụt giảm giá trị của phần vốn góp - một rủi ro mà chúng ta có thể nghĩ ngay đến là việc giá trị phần vốn góp được thế chấp bị giảm sút do việc quản lý công ty không tốt hay trong tình huống xấu hơn do động cơ xấu của bên bảo đảm vì bên bảo đảm vẫn thực hiện quyền biểu quyết nên vẫn tham gia vào việc quản lý công ty.
Thứ hai, quy định về chuyển nhượng vốn trong CTCP của pháp luật Việt Nam nói chung còn rải rác, các quy định vẫn chưa thống nhất, chưa có sự hướng dẫn rõ ràng. Vì vậy đã gây ra những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp khi áp dụng pháp luật trong hoạt động này. Bên cạnh đó, việc yêu cầu các bên phải thực hiện thanh toán tiền chuyển nhượng cổ phần/ phần vốn góp trước khi đăng ký và sửa đổi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp vì cho rằng, “hoàn thành chuyển nhượng” phải bao gồm việc “hoàn thành thanh toán cho việc chuyển nhượng”. “Cách áp dụng luật này trái ngược với quy định tại BLDS năm 2015, như theo quy định tại khoản 3 Điều 434 BLDS năm 2015 cho phép các bên thỏa thuận thời gian thanh toán..., từ đó dễ khiến nhà đầu tư lo ngại việc sẽ bị mất tiền. Do đó, LDN nên bổ sung quy định ghi nhận các bên trong giao dịch chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp có thể thỏa thuận và quyết định thời gian thanh toán, cũng như thời điểm có hiệu lực cho việc giao dịch, chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp là khi người mua được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh điều chỉnh đã được cấp cho bên mua.
Bên cạnh đó, việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập chỉ áp dụng đối với số cổ phần đăng ký mua tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp lần đầu và đã góp vốn trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy định như vậy, là chưa thực sự hợp lý và đảm bảo ý nghĩa của việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập theo tinh thần tại Khoản 3 Điều 120 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Bởi giả sử có cổ đông sáng lập không góp đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày và sau thời hạn đó thì có người khác nhận góp đủ số cổ phần còn thiếu, đương nhiên người này sẽ được coi là cổ đông sáng lập và khi đó cũng phải chịu những hạn chế chuyển nhượng như những cổ đông khác.
Thứ ba, phương thức thanh toán giao dịch chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp trong LDN năm 2020 còn chưa rõ ràng. Trong các quy định về chuyển nhượng vốn trong CTCP chưa có văn bản hướng dẫn thi hành đối với việc xử lý tài sản thế chấp là cổ phần tại CTCP “có tranh chấp” nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên có liên quan. Đặc biệt, là xử lý triệt để tình trạng dây dưa, kéo dài ảnh hưởng đến quyền và lợi ích không chỉ riêng cho hoạt động chuyển nhượng vốn trong CTCP nói chung ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, thông thường, pháp luật không quy định hợp đồng chuyển nhượng cổ phần phải có xác nhận của CTCP. Tuy nhiên, để đảm bảo tính an toàn nên có mục xác nhận việc chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên với nhau. Bên cạnh đó, khi hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có xác nhận của CTCP thì khi hai bên hoàn thành nghĩa vụ, CTCP đó sẽ có trách nhiệm thay đổi thông tin cổ đông và ghi nhận vào trong sổ đăng ký cổ đông, đây là quyền lợi của bên nhận chuyển nhượng.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần
Thực tiễn thi hành pháp luật về vốn trong CTCP vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong thủ tục chuyển nhượng. Do đó, các quy định về chuyển nhượng vốn trong CTCP cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho CTCP dễ dàng hoạt động và phát huy hơn nữa vai trò là nơi tập trung những nguồn vốn lớn của xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng vốn trong CTCP cần triển khai gồm:
Thứ nhất, bổ sung, sửa đổi quy định về thủ tục chuyển nhượng vốn trong CTCP. Mặc dù LDN năm 2020 đã có quy định mới về thủ tục chuyển nhượng vốn trong CTCP đối với cổ đông sáng lập hiện nay không cần thông báo thay đổi thông tin cổ đông với phòng đăng ký kinh doanh, tuy nhiên thủ tục về chuyển nhượng vốn trong CTCP vẫn còn tồn tại bất cập khi triển khai trên thực tế, vì vậy cần bổ sung, sửa đổi thủ tục như sau:
Một là, xóa bỏ quy định người nhận cổ phần chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông. Quy định về tư cách cổ đông trong CTCP sau khi hai bên thực hiện chuyển nhượng vốn trong CTCP chỉ được ghi nhận từ thời điểm thông tin cổ đông nhận chuyển nhượng được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đồng là một quy định khiến cho các bên gặp khó khăn trên thực tế và phát sinh tranh chấp. Về vấn đề này, cần có sự xem xét và thay đổi.
Việc thông báo thông tin cổ đông nhận chuyển nhượng vốn trong CTCP với CTCP để cập nhật vào Sổ đăng ký cổ đông chỉ mang mục đích giúp CTCP quản lý thông tin của cổ đông công ty chứ không mang tính quyết định tư cách cổ đông của cổ đông nhận chuyển nhượng. Chuyển nhượng vốn trong CTCP là quyền tự do của các cổ đông, khi hai bên hoàn thành các quyền và nghĩa vụ với nhau thì tư cách cổ đông cũng được chuyển giao từ thời điểm hoàn thành đó. Nên bỏ quy định phải có sự xác nhận tư cách cổ đông của CTCP, vì trên thực tế hai bên đã hoàn thành việc chuyển nhượng vốn trong CTCP và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại hợp đồng chuyển nhượng vốn trong CTCP, nhưng CTCP lại không xác nhận tư cách cổ đông mới, khiến cho quyền lợi của người nhận chuyển nhượng vốn trong CTCP bị ảnh hưởng, phải đưa vụ việc ra Tòa án yêu cầu giải quyết.
Pháp luật nên sửa đổi nội dung xác nhận của CTCP là thủ tục mang tính hành chính, quản lý về mặt sổ sách thông tin của cổ đông để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho tất cả các cổ đông cũ và mới gia nhập CTCP. Quy định bắt buộc phải có sự xác nhận của CTCP mới được công nhận là cổ đông công ty là một hạn chế đối mới chuyển nhượng vốn trong CTCP.
Ngoài ra, có thể xem xét thời hạn quy định phải có sự xác nhận của CTCP về tư cách cổ đông là trong vòng ba năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đề xuất này xuất phát từ điểm chung đối với quy định hạn chế chuyển nhượng vốn trong CTCP ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập trong vòng ba năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vì quan điểm chung, trong ba năm đầu, CTCP cần có sự ổn định về mặt tổ chức, nhân sự trước khi tiếp nhận thành viên mới để đảm bảo được chiến lược phát triển chung. Thì với quan điểm này, có thể vẫn duy trì quy định cần có sự xác nhận của CTCP, ghi vào sổ cổ đông thì mới phát sinh tư cách cổ đông của người nhận chuyển nhượng. Nhưng phải giới hạn thời gian, quy về điểm mốc chung là ba năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau đó, quy định này phải được bãi bỏ. Các bên chỉ cần thông báo sự thay đổi để CTCP cập nhật lại dữ liệu cổ đông để quản lý, việc này không ảnh hưởng đến quyền trở thành cổ đông hợp pháp của cổ đông nhận chuyển nhượng.
Hai là, tạo điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục chuyển nhượng vốn trong CTCP đối với trường hợp người nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài. Một trong những chính sách kinh tế hàng đầu hiện nay là thu hút đầu tư nước ngoài thì các quy định pháp luật phải cùng xu hướng với chính sách kinh tế để đảm bảo tính thống nhất. Muốn thu hút đầu tư thì phải tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Muốn làm được điều đó, trước hết ngành nghề và tỷ lệ sở hữu theo cam kết WTO đối với nhà đầu tư nước ngoài cần được mở rộng dần dần theo từng giai đoạn để các CTCP với các ngành nghề khác nhau có cùng cơ hội trong việc thu hút nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực của CTCP đó. Tiếp theo thủ tục thông báo với cơ quan quản lý đối với trường hợp người nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài cần xem xét có thể giảm đi như đối với trường hợp cổ đông sáng lập chuyển nhượng vốn trong CTCP không cần thông báo với phòng đăng ký kinh doanh. Nếu có thể thay bằng cách thức quản lý khác đối với đối tượng cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài sẽ giúp cho việc chuyển nhượng vốn trong CTCP thuận lợi và phát triển hơn.
Thứ hai, quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ cổ phần tại CTCP. Như đã phân tích cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần đặc biệt áp dụng cho hai đối tượng là cổ đông sáng lập và tổ chức được Chính phủ ủy quyền vì mục đích nâng cao vai trò của hai chủ thể này trong quản trị CTCP và kiểm soát đối với những ngành kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên nếu cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông sau ba năm vì lúc này công ty bắt đầu đi vào hoạt động ổn định, thì cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức được Chính phủ ủy quyền lại không giới hạn thời gian. Điều này sẽ tạo sự bất bình đằng giữa quyền biểu quyết của các cổ đông trong CTCP. Trong CTCP, mọi vấn đề quan trọng đều thông qua biểu quyết, vì vậy cần giới hạn thời gian nắm giữ của của tổ chức được Chính phủ ủy quyền như những giới hạn khác là trong vòng ba năm, sau ba năm phải chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Thực tế, nếu một CTCP có của tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữa cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ có lợi thế trong việc chi phối các hoạt động trong CTCP tạo sự bất bình với cổ đông hiện hữu, sự quan ngại đối với các nhà đầu tư muốn tham gia vào CTCP đó. Vì vậy việc quy định giới hạn khoảng thời gian đại diện cho phần vốn góp của Nhà nước nắm giữ các cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ khắc phục được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động của CTCP, đồng thời tạo ra sự bình đẳng giữa các loại cổ đông.
Thứ ba, nên bổ sung khái niệm chuyển nhượng vốn trong CTCP. Hiện nay, luật Doanh nghiệp năm 2020 chưa có khái niệm chuyển nhượng vốn trong CTCP nên khi áp dụng còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc quy định về hình thức chuyển nhượng vốn trong CTCP hoặc thông qua hợp đồng chuyển nhượng hoặc thông qua TTCK cũng khiến cho người áp dụng lúng túng về các khái niệm. Vì vậy, để thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng, pháp luật doanh nghiệp nói chung và pháp luật chuyển nhượng vốn trong CTCP nói riêng cần quy định, chuyển nhượng vốn trong CTCP rõ ràng và cụ thể hơn.
 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Phạm Vũ Phương (2019), Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, Tạp chí công thương.
2. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014, Hà Nội.
3. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội.
4. Quốc hội (2020), Luật Doanh nghiệp năm 2020, Hà Nội.


[1] Phạm Vũ Phương (2019), Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, Tạp chí công thương.