19:50 ICT Thứ ba, 23/04/2024 1
     

    Chuyên mục

    thành viên

    Lượt truy cập

    • Đang truy cập: 386
    • Hôm nay: 62190
    • Tháng hiện tại: 2351955
    • Tổng lượt truy cập: 31012646

    Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu khoa học » Nghiên cứu trao đổi

    Thực trạng pháp luật xử lý chất thải rắn sinh hoạt và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Bình

    Thứ năm - 02/07/2020 10:08

    ThS. Hoàng Thị Thu Phương - ThS. Hoàng Thị Oanh
    Việt Nam là một trong những nước có tốc độ đô thị hóa cao nhất khu vực. Đô thị hóa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng cũng làm tăng thêm các thách thức tại các thành phố về cung ứng dịch vụ và cơ sở hạ tầng, nhất là trong lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải và CTRSH.
    Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề quản lý chất thải nói chung và xử lý CTRSH nói riêng. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh Quảng Bình luôn quan tâm, chú trọng ban hành các văn bản để triển khai thực hiện có hiệu quả nhằm góp phần đưa công tác quản lý nhà nước về chất thải trên địa bàn Tỉnh đi vào nền nếp, giữ vững kỷ cương pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung đánh giá kết quả đạt được; những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về xử lý CTRSH tại tỉnh Quảng Bình, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý CTRSH tại Tỉnh.
    1. Thực trạng pháp luật về xử lý chất thải rắn sinh hoạt
    Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến quản lý CTRSH được ban hành và đang có hiệu lực như: Luật Bảo vệ môi trường 2014; Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 5/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu; Nghị định số 40/2019/NĐ-CP ngày 13/5/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường… Phần lớn các văn bản ban hành phù hợp với thực tiễn, phát huy hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường nói chung và xử lý CTRSH nói riêng.
    Bên cạnh những điểm mới, điểm tiến bộ trong các quy định của pháp luật về xử lý CTRSH, nội dung một số văn bản pháp luật liên quan đến các quy định về xử lý CTRSH bộc lộ một số vướng mắc, bất cập như sau:
    Thứ nhất, công tác quản lý CTRSH còn nhiều bất cập, chồng chéo giữa nhiều bộ ngành, dẫn tới tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh trật tự trên nhiều địa phương.
    Thứ hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan được giao thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, nhưng một số nội dung về: Hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất CTRSH lại được giao Bộ Xây dựng thực hiện dẫn đến Bộ Tài nguyên và Môi trường khó thống nhất quản lý nhà nước về CTRSH.
    Thứ ba, các văn bản dưới luật như Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tô chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất lượng và bảo trì công trình xây dựng, Nghị định 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu… đang có sự phân đoạn và không rõ ràng trong phân công chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về CTRSH; chưa quy định, phân luồng quản lý CTRSH một cách thống nhất…
    Thứ tư, hoạt động xử lý vi phạm pháp luật về xử lý CTRSH vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau: Như năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do quản lý CTRSH cũng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn nên việc kiểm tra chưa được thường xuyên, sát sao; chưa kịp thời phát hiện và xử lý được nhiều vụ việc vi phạm pháp luật môi trường mang tính nghiêm trọng….
    Đồng thời, mức phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT nói chung còn chưa phù hợp và còn nhiều điểm quy định rất chung chung. Trong khi những tác hại lâu dài do CTRSH không được xử lý tốt có ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe. Vì vậy sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa đạt được hiệu quả trên thực tế.
    Thứ năm, hệ thống quy chuẩn môi trường quốc gia đặc biệt là quy chuẩn quốc gia về CTRSH chưa phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường 2014 và điều kiện thực tế.
       2. Thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại tỉnh Quảng Bình
    2.1. Những kết quả đạt được
    UBND tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp trong công tác quản lý chất thải rắn nói chung và CTRSH nói riêng trên địa bàn, nhờ vậy, công tác xử lý CTRSH đã đạt những kết quả đáng ghi nhận.
    Thứ nhất, ban hành chính sách về quản lý chất thải nói chung và xử lý CTRSH nói riêng tại địa phương
    Trên cơ sở các quy định của pháp luật về môi trường, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành nhiều văn bản để triển khai thi hành các quy định về phân loại CTRSH như: Chỉ thị số 17/CT-UBND ngày 18/9/2017 của UBND tỉnh về việc tăng cường công tác quản lý CTRSH trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; Quyết định số 03/2018/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2018 của UBND tỉnh ban hành Quy định về quản lý CTRSH trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; Kế hoạch số 1260/KH-UBND ngày 30/7/2019 của UBND tỉnh thực hiện phong trào “Chống CTRSH nhựa” trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; Quyết định số 3052/QĐ-UBND ngày 09/8/2019 về việc phê duyệt Đề án đóng cửa các bãi chôn lấp CTRSH trên địa bàn tỉnh Quảng Bình (Giai đoạn 2020 - 2025); Chỉ thị số 35-CT/TU ngày 08/10/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, xử lý CTRSH trên địa bàn tỉnh Quảng Bình… Các văn bản này đã giải quyết đồng bộ từ khâu phân loại tại nguồn đến khâu thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH với mục tiêu xử lý triệt để CTRSH, tăng tỷ lệ thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH tại tỉnh Quảng Bình. Cũng tại các văn bản này đã xác định được trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan đến việc quản lý CTRSH có tính đến hiệu quả triển khai thi hành trên thực tế.
    Thứ hai, xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở xử lý chất thải rộng khắp trên địa bàn toàn Tỉnh
    Thời gian qua, công tác quản lý CTRSH trên địa bàn Tỉnh đã đạt được một số kết quả nhất định, cơ sở hạ tầng xử lý rác thải từng bước được quan tâm đầu tư, mạng lưới hợp tác xã, tổ đội vệ sinh môi trường ở các địa phương ngày càng được mở rộng và phát triển về số lượng cũng như chất lượng. Đến nay, tỷ lệ thu gom rác thải trên địa bàn toàn Tỉnh đạt khoảng 75,5%. Các huyện đều đã có bãi chôn lấp, xử lý CTRSH đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật (trừ thị xã Ba Đồn đang sử dụng chung bãi rác huyện Quảng Trạch để xử lý)[1].
    Thứ ba, nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng, người dân và doanh nghiệp về quản lý CTRSH nói chung và xử lý CTRSH nói riêng ngày càng nâng cao
    Hàng năm, UBND tỉnh Quảng Bình giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội, các ngành và địa phương để tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và về xử lý CTRSH nói riêng, các hoạt động tuyên truyền, phổ biến được lồng ghép với nhiều hoạt động quản lý và được tổ chức với nhiều hình thức phong phú, ý nghĩa, thiết thực, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và mang lại hiệu quả cao trong việc nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường như:
    Một là, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh, Tỉnh Đoàn, Hội Cựu chiến binh Tỉnh, Liên đoàn Lao động Tỉnh, Hội Người cao tuổi Tỉnh, Hội Doanh nghiệp Tỉnh tổ chức hơn 10 lớp tập huấn, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường cho các tổ chức, cá nhân, với 100 - 150 người/lớp nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường; thi sân khấu hóa, thông qua các hệ thống thông tin truyền thông như: mít tinh, ra quân làm vệ sinh môi trường, tuyên truyền qua loa phát thanh, đài, báo, treo băng rôn (1-2 đợt/năm),…
    Hai là, tổ chức Lễ mít tinh cấp Tỉnh năm 2018 và các hoạt động hưởng ứng ngày Môi trường Thế giới 05/6, ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5, tuần lễ Biển và Hải đảo 01/6 - 08/6; chỉ đạo sở, ban, ngành đoàn thể cấp tỉnh, UBND cấp huyện tuyên truyền, tập huấn công tác bảo vệ môi trường, tập huấn các nội dung môi trường trong tiêu chí môi trường và an toàn thực phẩm trong xây dựng nông thôn mới. Chỉ đạo Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh xây dựng chuyên mục: “Điều được và chưa được về môi trường trong xây dựng Nông thôn mới” và chuyên mục “Công tác xử lý CTRSH ở địa bàn dân cư” nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân[2].
    Ba là, Sở Tài nguyên và Môi trường đã soạn thảo và sao in 170 đĩa CD tuyên truyền hướng dẫn công tác bảo vệ môi trường ở địa bàn dân cư, cung cấp đến cấp xã trong toàn tỉnh để tuyên truyền thông qua phương thức truyền thanh trên hệ thống truyền thanh; Hướng dẫn các địa phương xây dựng mô hình thu gom và xử lý CTRSH nông thôn dựa vào cộng đồng[3].
    2.2. Những hạn chế, bất cập, vướng mắc phát sinh từ quá trình áp dụng pháp luật xử lý CTRSH tại tỉnh Quảng Bình
    Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn triển khai áp dụng pháp luật về xử lý CTRSH tại tỉnh Quảng Bình còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập. Cụ thể như sau:
    Thứ nhất, công tác quản lý CTRSH còn nhiều bất cập, chồng chéo giữa nhiều bộ ngành, dẫn tới tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh trật tự trên nhiều địa phương
    (i) Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan được giao thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, nhưng một số nội dung về: Hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất CTRSH lại được giao Bộ Xây dựng thực hiện dẫn đến Bộ Tài nguyên và Môi trường khó thống nhất quản lý nhà nước về CTRSH.
    (ii) Các văn bản dưới luật như Nghị định số 36/2017/NĐ-CP ngày 04/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nghị định số 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015, Nghị định 38/2015/NĐ-CP… đang có sự phân đoạn và không rõ ràng trong phân công chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về CTRSH; chưa quy định, phân luồng quản lý CTRSH một cách thống nhất…
    (iii) Công tác xử lý vi phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường ở Việt Nam nói chung và pháp luật quản lý CTRSH nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc: Như năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường do quản lý CTRSH cũng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn nên việc kiểm tra chưa được thường xuyên, sát sao; chưa kịp thời phát hiện và xử lý được nhiều vụ  việc vi phạm pháp luật môi trường mang tính nghiêm trọng….
    (iv) Hệ thống quy chuẩn môi trường quốc gia đặc biệt là quy chuẩn quốc gia về CTRSH nói chung và CTRSH nói riêng chưa phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường 2014 và điều kiện thực tế.
    Thứ hai, về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong quản lý CTRSH
    Một số cấp chính quyền tại một số địa phương chưa chú trọng công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân trong công tác quản lý CTRSH nói riêng và công tác bảo vệ môi trường nói chung. Ở rất nhiều địa phương đã có hương ước về làng văn hóa mới, trong đó quy định rất cụ thể về nếp sống văn hóa trong cưới hỏi, tang lễ… nhưng rất ít các hương ước đề cập đến các quy định về quản lý chất thải và vệ sinh môi trường hoặc đề cập một cách chung chung.
    Bên cạnh đó, sự phối hợp trong công tác quản lý CTRSH giữa các địa phương và các cơ quan chức năng chưa được thực hiện chặt chẽ, thường xuyên và nghiêm túc.
    Thứ ba, về nguồn kinh phí
    Chủ trương xã hội hóa công tác BVMT, trong đó có xã hội hóa công tác quản lý CTRSH đã được đặt ra. Tuy nhiên, thực tế còn thiếu nhiều văn bản và cơ chế để cụ thể hóa chủ trương này, nhất là việc ban hành cơ chế, hướng dẫn ở cấp địa  phương.
    Hiện nay, tỉnh Quảng Bình vẫn chưa có những chính sách khuyến khích hỗ trợ thật cụ thể, minh bạch và rõ ràng nhằm thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế trong công tác thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH, từ đó chưa huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội có thể đóng góp cho công tác xử lý CTRSH nói riêng và bảo vệ môi trường nói chung.
    Thứ tư, công tác kiểm tra, thanh tra thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các hành vi vi phạm về BVMT đối với CTRSH còn chưa đủ sức răn đe, mức thi hành cưỡng chế có hiệu lực chưa cao dẫn đến hiệu quả quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát môi trường từ cấp tỉnh đến các địa phương còn rất mỏng, không đủ người, không đủ thiết bị cần thiết nên công tác này đã gặp không ít các khó khăn khi giải quyết các vấn đề thực tế.
    Thứ năm, về năng lực của các tổ chức thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH
    Nhìn chung, do nguồn lực còn hạn chế nên các tổ chức dịch vụ môi trường của Tỉnh chưa đủ năng lực để giải quyết trọn vẹn các vấn đề quản lý chất thải, việc thu gom CTRSH vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tế, đồng thời một số tổ chức dịch vụ hoạt động kém hiệu quả và không bền vững. Hơn nữa với mô hình quản lý hiện nay trên địa bàn Tỉnh phổ biến mang tính riêng biệt từng địa phương, chưa có sự gắn kết hợp tác giải quyết các vấn đề liên xã, liên huyện.
    Thứ sáu, về công nghệ xử lý CTRSH hiện nay
    Hiện nay, trên địa bàn Tỉnh việc xử lý CTRSH chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp, phần lớn các bãi rác vận hành chưa đúng quy trình nên gây ô nhiễm môi trường. Hầu hết, các bãi rác trong các đô thị từ trước đến nay không theo quy hoạch tổng thể. Một số bãi rác lại có đường giao thông đi vào không thuận tiện, nhiều địa bàn dân cư ở xa các điểm tập kết xử lý rác, lại thêm khó khăn về kinh phí để vận chuyển và xử lý CTRSH cũng là nguyên nhân dẫn đến thực trạng ô nhiễm môi trường từ các bãi xử lý CTRSH nhiều năm nay. Đồng thời, tại một số địa phương còn tồn tại các bãi tập kết rác nhỏ, tự phát trong khu dân cư ở các vùng nông thôn và đây cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ví dụ như bãi rác tạm xã Cảnh Dương, khu vực Ngư Thuỷ Trung, nông trường Lệ Ninh...
    Ngoài ra, tại Việt Nam vẫn chưa có một mô hình mẫu, hiệu quả cao trong công tác xử lý CTRSH để địa phương học tập, làm theo. Hiện nay, có nhiều công nghệ xử lý CTRSH tiên tiến trên thế giới, tuy nhiên, các công nghệ xử lý CTRSH này thường có chi phí đầu tư cao và chưa được khẳng định phù hợp tính chất, thành phần CTRSH tại Việt Nam.
    Thứ bảy, về ý thức của cộng đồng trong công tác quản lý CTRSH
    Thực tế hiện nay cho thấy, người dân còn thiếu ý thức trong tiết kiệm và cách thức tiêu dùng thân thiện với môi trường hay tái sử dụng chất thải nên lượng chất thải nói chung và chất thải khó phân hủy nói riêng ngày càng gia tăng. Người dân vẫn còn tư tưởng “thu gom, vận chuyển, xử lý CTRSH là trách nhiệm của các nhà quản lý, cấp chính quyền”.
    Ngoài ra, các hoạt động tổ chức cộng đồng tham gia quản lý chất thải nông thôn còn mang nặng tính phong trào, chủ yếu thực hiện trong các dịp lễ, tết mà chưa được duy trì thường xuyên, chưa trở thành nhiệm vụ của các cơ quan và các cấp chính quyền. 
    3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
    a) Nguyên nhân khách quan
    Thứ nhất, do điều kiện tự nhiên của Tỉnh khá phức tạp nên việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tại một số địa bàn có nhiều khó khăn và hạn chế.
    Thứ hai, trước đây công tác bảo vệ môi trường chưa được chú trọng, vì hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường được ban hành chưa lâu, còn thiếu đồng bộ, nhiều vấn đề chưa hợp lý nên đòi hỏi một quá trình để hoàn thiện và đi vào cuộc sống.
    Thứ ba, đầu tư cho xử lý môi trường đòi hỏi nguồn lực lớn trong khi nội lực ngân sách địa phương có hạn. Nhiều cơ sở công nghiệp trên địa bàn Tỉnh được xây dựng từ lâu nên công nghệ cũ, lạc hậu, sản xuất kém hiệu quả, phát sinh lượng chất thải lớn, hệ thống xử lý chất thải chưa đảm bảo.
    b) Nguyên nhân chủ quan
    Thứ nhất, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, phổ biến chủ trương, pháp luật của một số cấp uỷ Đảng, Chính quyền ở một số nơi thiếu thường xuyên, quyết liệt; công tác đánh giá sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm chưa đầy đủ. Thiếu chính sách, cơ chế hợp lý để khuyến khích các tổ chức, cá nhân làm tốt công tác bảo vệ môi trường và xử lý nghiêm các cơ sở, cá nhân vi phạm. Công tác triển khai, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn các cấp nhiều khi còn thiếu tính cụ thể, sâu sát, thiết thực.
    Thứ hai, do áp lực tăng trưởng, nên còn tồn tại tư tưởng giành nguồn lực tập trung đầu tư để sớm đem lại hiệu quả kinh tế trước mắt mà thiếu tính lâu dài, bền vững, thể hiện ở cả công tác quy hoạch, định hướng phát triển còn thiếu tính đồng bộ, hợp lý.
    Thứ ba, công tác quản lý bảo vệ môi trường đòi hỏi xã hội hoá cao và có sự phối hợp chặt chẽ thường xuyên, song trong thực tế việc phối hợp giữa các sở, ban, ngành các cấp, các đoàn thể chính trị - xã hội và cộng đồng dân cư còn nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, thường xuyên, thiếu điều kiện cơ sở vật chất để triển khai các nội dung chương trình.
    Thứ tư, ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của một số doanh nghiệp, người dân nhìn chung còn hạn chế do nhận thức và chạy theo lợi ích cục bộ, cá nhân.
    Thứ năm, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về môi trường nói chung và CTRSH nói riêng còn thiếu đổi mới, hiệu quả chưa cao. Thực hiện xã hội hoá về bảo vệ môi trường chưa mạnh. Công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển giao công nghệ xử lý tái chế chất thải và xây dựng các mô hình tiên tiến về bảo vệ môi trường chưa được chú ý đúng mức.
    Thứ sáu, công tác quản lý nhà nước về môi trường còn một số hạn chế. Kiểm tra, thanh tra xử lý các vi phạm chưa thật kiên quyết. Sự phối hợp của các sở, ngành trong việc tham mưu, đề xuất triển khai chính sách pháp luật có lúc có nơi còn chưa kịp thời.
    3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại tỉnh Quảng Bình
    3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý chất thải rắn sinh hoạt
    Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác xử lý CTRSH, tác giả mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý CTRSH như sau:
    Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật quản lý CTRSH. Trong thời gian tới cần xác định rõ tính nguy hiểm của hành vi vi phạm, từ đó sửa đổi, bổ sung mức xử phạt đúng và phù hợp, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào thực tế cuộc sống. Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh các biện pháp chế tài nghiêm khắc, phù hợp với các hành vi vi phạm quy định về thu gom, xử lý chất CTRSH tại nguồn theo từng công đoạn.
    Thứ hai, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan được giao thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, do đó những nội dung như: Hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTRSH theo quy hoạch được phê duyệt; phương pháp lập, quản lý chi phí và phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH; công bố định mức kinh tế, kỹ thuật về thu gom, vận chuyển và xử lý CTRSH; suất vốn đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất CTRSH cần được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất quản lý nhà nước.
    Thứ ba, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường. Cần phải rà soát và hoàn thiện hệ thống quy chuẩn môi trường quốc gia đồng thời nghiên cứu kỹ lưỡng các đặc thù của từng khu vực kinh tế để xây dựng quy chuẩn quốc gia về chất thải rắn, đặc biệt là chất thải rắn công nghiệp cho phù hợp. Kịp thời ban hành Quy chuẩn kỹ thuật về mô hình xử lý chất thải phù hợp với Luật Bảo vệ môi trường 2014, theo hướng giảm thiểu lượng chất thải chôn lấp, tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng, thu năng lượng từ chất thải phù hợp với điều kiện Việt Nam.
    Thứ tư, tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức phục vụ công tác bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2014. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật trong công tác quản lý CTRSH nhằm thu hút các nguồn lực tham gia đầu tư trong lĩnh vực quản lý CTRSH và quản lý một cách đồng bộ, hiệu quả.
    3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật xử lý chất thải rắn sinh hoạt  tại tỉnh Quảng Bình
    Ban hành một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực môi trường đã là điều không dễ, song việc tổ chức thực thi trên thực tế một cách nghiêm minh, khách quan và minh bạch là một công việc còn khó hơn nhiều. Để có thể nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật xử lý CTRSH tại tỉnh Quảng Bình cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
    3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện, triển khai các thể chế, chính sách
    Thứ nhất, xây dựng các văn bản về BVMT phù hợp với tình hình phát triển của Tỉnh. Lồng ghép các yêu cầu BVMT vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành ở địa phương.
    Thứ hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với lực lượng cảnh sát môi trường trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
    3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy đáp ứng yêu cầu quản lý chất thải rắn sinh hoạt
    Thứ nhất, tiếp tục kiện toàn và tăng cường năng lực, tổ chức bộ máy quản lý môi trường của đơn vị, địa phương, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về môi trường từ cấp tỉnh đến cơ sở nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
    Thứ hai, đảm bảo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và quản lý CTRSH nói riêng có cơ cấu hợp lý, sắp xếp, bố trí lại số biên chế hiện có và bổ sung kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể tại các cơ quan bảo vệ môi trường và địa phương.
    Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ cấp tỉnh đến cấp xã phải được đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ môi trường và các yêu cầu khác đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
    3.2.3. Tăng cường năng lực xử lý chất thải rắn sinh hoạt
    Thứ nhất, tăng cường về số lượng và chất lượng cán bộ quản lý môi trường từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tập huấn và bồi dưỡng để nâng cao năng lực cán bộ quản lý môi trường các cấp.
    Thứ hai, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác quản lý môi trường; chú trọng đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm đảm bảo hạn chế tác động tới môi trường và không ngừng nâng cao năng suất lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn.
    Thứ ba, tăng cường phối hợp công tác quản lý môi trường giữa các ban, ngành, địa phương trong tỉnh.
    3.2.4. Huy động nguồn lực tài chính
    Thứ nhất, tăng cường huy động nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ môi trường. Tăng đầu tư và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo vệ môi trường. Tăng mức chi sự nghiệp môi trường ít nhất 1,5% tổng chi cho ngân sách, dự kiến hàng năm tăng dần tổng chi ngân sách cho hoạt động BVMT so với năm trước.
    Thứ hai, tranh thủ sự ủng hộ của các Bộ, ngành Trung ương và các tổ chức quốc tế thực hiện các dự án BVMT, đa dạng hóa đầu tư BVMT, thực hiện các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể để khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư BVMT. Tiếp tục đề xuất nguồn kinh phí để xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thuộc đối tượng công ích tại Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 về việc “Phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng” và Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, như: Xử lý ô nhiễm tại bãi xử lý rác xã Thanh Trạch (huyện Bố Trạch); nâng cấp, mở rộng một số bãi xử lý CTRSH để nâng cao năng lực xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường như: Bãi rác huyện Tuyên Hóa, bãi rác huyện Quảng Trạch, bãi rác huyện Lệ Thủy…
    Thứ ba, các doanh nghiệp được tính vốn đầu tư BVMT trong giá thành chi phí sản xuất để huy động khoảng 1 - 2% tổng chi phí của doanh nghiệp.
    Thứ tư, tăng cường nguồn vốn đầu tư vốn cho sự nghiệp bảo vệ môi trường địa phương, ưu tiên đầu tư xử lý triệt để ô nhiễm môi trường nghiêm trọng các đơn vị thuộc khu vực công ích (bệnh viện, bãi rác...).
    3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật môi trường nói chung và pháp luật về xử lý chất thải rắn sinh hoạt nói riêng cho cán bộ và nhân dân, từ đó tạo ra sự đồng thuận của người dân khi triển khai thực hiện các hoạt động liên quan đến xử lý chất thải rắn sinh hoạt
    Thứ nhất, trong thời điểm nước ta vừa đồng loạt sửa đổi và ban hành các đạo luật quan trọng... thì việc đưa các đạo luật này áp dụng vào thực tiễn là rất cần thiết. Do vậy, tỉnh Quảng Bình cần tăng cường tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến những văn bản quy phạm pháp luật mới, những cơ chế, chính sách mới. Đặc biệt là đưa các quy định của pháp luật thực định đến với đội ngũ cán bộ, các bản làng xa xôi, nơi có trình độ dân trí, trình độ pháp luật còn thấp, từ đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật về xử lý CTRSH và kinh nghiệm giải quyết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật về xử lý chất thải nói chung và xử lý CTRSH nói riêng tại địa phương. Bên cạnh đó, UBND các cấp cần tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật môi trường nói chung cũng như pháp luật về xử lý CTRSH nói riêng. Phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm và xử lý nghiêm đối với các địa phương không thực hiện hoặc thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật một cách hình thức.
    Thứ hai, việc phổ biến pháp luật phải được thực hiện một cách thường xuyên với nội dung và hình thức phù hợp với đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là sự phối kết hợp của các cấp, các ngành từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã, nhất là đến từng thôn, làng, tổ dân phố bằng nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương hoặc tiếp xúc trực tiếp với nhân dân (tại các cuộc họp tổ dân phố, thôn, làng hoặc các cuộc họp khác của địa phương hoặc các cuộc tiếp xúc cử tri…).
    Thứ ba, tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức đối với công tác BVMT cho các ngành, các cấp, các tổ chức Hội, Đoàn thể và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh tổ chức các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức BVMT cho cộng đồng một cách có hiệu quả và đồng bộ.
    3.2.6. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện các quy định về xử lý chất thải rắn sinh hoạt
    Để góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các quy định về xử lý CTRSH, đảm bảo tính công khai, minh bạch và đảm bảo được quyền lợi của người dân, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
    Thứ nhất, tăng cường thanh tra, kiểm tra (định kỳ hoặc đột xuất) các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan có liên quan trong quá trình thực hiện các quy định về xử lý CTRSH nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm về xử lý CTRSH.
    Thứ hai, thực hiện việc giám sát thi hành thông qua Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc tại địa phương, nhất là vai trò giám sát xã hội của các cơ quan  truyền thông, các tổ chức xã hội và người dân, đối với việc tuân thủ pháp luật môi trường nói chung cũng như các quy định về xử lý CTRSH nói riêng của các cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan có liên quan được giao nhiệm vụ thực hiện xử lý CTRSH.
    Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động xử lý CTRSH của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi thực thi nhiệm vụ. Để một mặt nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những khuất tất, sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền; mặt khác, đảm bảo các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực xử lý CTRSH được giải quyết kịp thời, dứt điểm và đúng pháp luật.
    3.2.7. Thực hiện nghiêm túc công tác lập quy hoạch quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn Tỉnh
    Để quy hoạch quản lý CTRSH đảm bảo tính khả thi, tính thống nhất, tính đồng bộ, tỉnh Quảng Bình cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
    Thứ nhất, tính toán kỹ càng và xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quy hoạch  quản lý chất thải với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng đô thị nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các loại quy hoạch. Hạn chế tối đa và tiến tới chấm dứt việc điều chỉnh hoặc quyết định xem xét lại dự án.
    Thứ hai, thực hiện việc công bố công khai và đảm bảo tính khách quan, minh bạch của quy hoạch quản lý chất thải và các quy hoạch khác có liên quan trên các phương tiện thông tin truyền thông hoặc niêm yết công khai (tại trụ sở cơ quan, đơn vị lập quy hoạch).
    Thứ ba, thực hiện thanh tra, kiểm tra và giám sát việc lập quy hoạch quản lý CTRSH tại địa bàn Tỉnh một cách thường xuyên nhằm thực hiện nghiêm túc và đảm bảo tính thống nhất về quy hoạch giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương; Thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện quy hoạch quản lý CTRSH của cấp cơ sở, của chủ dự án đầu tư, nhằm đảm bảo việc triển khai có hiệu quả. Đối với những trường hợp vi phạm, cần phải chấn chỉnh kịp thời và xử lý nghiêm minh bằng việc áp dụng các chế tài thích đáng.
    Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, Quảng Bình đang là một trong những Tỉnh có tỉ lệ thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài rất lớn. Kinh tế của Tỉnh ngày càng phát triển nhưng cùng với đó là các vấn đề về môi trường được đặt ra. Do đó, việc khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp hướng tới việc nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý CTRSH trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Đồng thời, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, từng cá nhân phải nhận thức được trách nhiệm và cùng chung tay bảo vệ môi trường, mới có thể tạo ra chuyển biến tích cực và nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác xử lý CTRSH nói riêng, tiến tới từng bước ngăn ngừa tình trạng ô nhiễm môi trường./.
     

    [1] Quảng Bình - Nhiều nỗ lực trong quản lý, xử lý chất thải rắn, https://stnmt.quangbinh.gov.vn/3cms/quang-binh-nhieu-no-luc-trong-quan-ly-xu-ly-chat-thai-ran.htm
    [2] Báo cáo số 78/BC-UBND ngày 23/4/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình về công tác bảo vệ môi trường năm 2018 của tỉnh Quảng Bình
    [3] Công văn số 1215/UBND-TNMT ngày 23/7/2019 về việc phát động phong trào “Ngày toàn dân thu gom rác thải” trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
     

     

    Hỏi đáp pháp luật

    Hình ảnh hoạt động

    • 1
    • 1
    • 1
    • 1
    • 1

    Liên kết website

    Video

    Trường Trung cấp Luật Đồng Hới- Quảng Bình