ThS. Nguyễn Thị Hương
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã định hình tầm nhìn chiến lược, coi việc ứng dụng công nghệ số vào mọi lĩnh vực, đặc biệt là quản lý nhà nước và hoạt động pháp luật, là một yêu cầu mang tính sống còn. Trọng tâm của Nghị quyết là phát triển hạ tầng số hiện đại, đồng bộ và khai thác dữ liệu như một “tư liệu sản xuất chính”, thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế dữ liệu. Song hành với đó, việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 cũng đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho ngành thi hành án dân sự: đẩy mạnh xã hội hóa và đổi mới tổ chức, hoạt động.
Trong bối cảnh đó, vai trò của Thừa phát lại và vi bằng ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) về vi bằng trở thành một mắt xích then chốt, không chỉ giúp số hóa công tác quản lý nhà nước về Thừa phát lại mà còn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, thực tế triển khai đang cho thấy những hạn chế rõ rệt. Tính đến tháng 9/2025, chỉ có 04/63 tỉnh, thành phố xây dựng CSDL vi bằng và đi vào hoạt động. Tình trạng này đòi hỏi Cục Quản lý Thi hành án dân sự (THADS) và các Sở Tư pháp địa phương cần hành động quyết liệt.
Việc áp dụng triệt để các nguyên tắc của Nghị quyết số 57-NQ/TW vào lĩnh vực này không chỉ là một nhiệm vụ chuyên môn của Cục Quản lý THADS mà còn là giải pháp mang tính đột phá để thúc đẩy quá trình minh chứng hóa, hiện đại hóa và số hóa hoạt động pháp lý, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu lớn của Đảng.
1. Tầm quan trọng của Cơ sở dữ liệu Vi bằng trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi số toàn diện theo chủ trương của Đảng, việc xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) vi bằng trở thành một yêu cầu cấp thiết, đóng vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa và thực thi hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW. Sự cần thiết này được thể hiện qua các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, phù hợp với tầm nhìn và nguyên tắc của Nghị quyết 57-NQ/TW.
Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định chuyển đổi số là một trong những động lực chính để phát triển nhanh và bền vững. Việc xây dựng CSDL vi bằng thể hiện sự quán triệt sâu sắc các nguyên tắc chỉ đạo của Nghị quyết:
Khai thác dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính: Nghị quyết nhấn mạnh việc làm giàu và khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu. CSDL vi bằng chính là nguồn tài nguyên dữ liệu pháp lý quý giá, giúp chuẩn hóa, lưu trữ và cho phép khai thác thông tin về các sự kiện pháp lý đã được chứng kiến, làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng, giải quyết tranh chấp sau này; Phát triển hạ tầng số hiện đại, an toàn: CSDL vi bằng cần được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo tính “an ninh, an toàn, hiệu quả”, phù hợp với nguyên tắc phát triển hạ tầng số mà Nghị quyết đề ra, tránh lãng phí và đảm bảo chủ quyền dữ liệu quốc gia.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về Thừa phát lại.
Thực trạng được nêu ra là việc xây dựng CSDL vi bằng tại các địa phương còn rất hạn chế (mới chỉ có 04/63 tỉnh/thành phố triển khai). Điều này dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý, giám sát hoạt động của Thừa phát lại. Việc xây dựng một CSDL tập trung, thống nhất sẽ giúp: Minh bạch hóa hoạt động: Các cơ quan quản lý (Cục Quản lý THADS, Sở Tư pháp) có thể dễ dàng theo dõi, kiểm tra, giám sát số lượng, nội dung, tính hợp pháp của các vi bằng được lập, từ đó kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm; Hỗ trợ công tác tra cứu, xác minh: Khi cần thiết, các cơ quan chức năng (Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan công an) có thể nhanh chóng tra cứu, xác minh tính xác thực của vi bằng, rút ngắn thời gian giải quyết vụ việc.
Thứ ba, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Vi bằng có vai trò quan trọng trong việc chứng minh sự kiện pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Một CSDL vi bằng hiệu quả sẽ tăng cường giá trị pháp lý của vi bằng: Khi được quản lý trong một hệ thống chính thức, có sự xác nhận của cơ quan nhà nước, vi bằng sẽ có độ tin cậy cao hơn, dễ dàng được chấp nhận làm chứng cứ trước tòa án. Tại Điều 36 của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, cũng đã quy định những sự kiện, hành vi được Thừa phát lại chứng kiến, được thể hiện rõ trong vi bằng nên vi bằng có giá trị là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự và hành chính theo quy định của pháp luật; là căn cứ để thực hiện giao dịch giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu thấy cần thiết, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để làm rõ tính xác thực của vi bằng. Thừa phát lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phải có mặt khi được Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân triệu tập. Ở đây, cần nhấn mạnh một điều rằng, vi bằng không thay thế văn bản công chứng, văn bản chứng thực, văn bản hành chính khác[1].
Trong thực tiễn xét xử, hiện nay đã có một số vụ án cũng đã sử dụng vi bằng là nguồn chứng cứ vô cùng quan trọng để làm sáng tỏ những tình tiết trong vụ án cũng như góp phần giải quyết nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trước Tòa án.
Bên cạnh đó, việc xây dựng CSDL vi bằng còn giảm thiểu rủi ro, tranh chấp: Dữ liệu minh bạch giúp các cá nhân, tổ chức yên tâm hơn khi sử dụng dịch vụ Thừa phát lại, đồng thời ngăn ngừa tình trạng làm giả vi bằng hoặc tranh chấp liên quan đến nội dung vi bằng.
2. Quy định pháp luật về Cơ sở dữ liệu về vi bằng
Lập vi bằng là một trong những nhiệm vụ của Thừa phát lại được quy định tại Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại (Nghị định số 08/2020/NĐ-CP). Vi bằng là sản phẩm hoàn toàn độc quyền của riêng Thừa phát lại. Bởi ngoài Thừa phát lại thì không một chủ thể nào có quyền lập vi bằng [2].
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP: “Vi bằng là văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi có thật do Thừa phát lại trực tiếp chứng kiến, lập theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định”.
Có thể thấy, vi bằng là một văn bản ghi nhận, mô tả lại một cách trung thực, khách quan một sự kiện hoặc hành vi đang xảy ra với sự chứng kiến của Thừa phát lại theo yêu cầu của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Kèm theo vi bằng là văn bản có thể có hình ảnh, video, âm thanh thông qua hoạt động quay phim, chụp hình và ghi âm tại thời điểm lập vi bằng. Theo đó, trong thực tiễn đời sống xã hội hiện nay, vi bằng do Thừa phát lại lập đã ghi nhận rất nhiều sự kiện pháp lý khác nhau, với nội dung vô cùng phong phú, đa dạng. Vi bằng như một biên bản thể hiện đầy đủ sự kiện, hành vi giữa các bên với “người làm chứng” là Thừa phát lại [3]. Tuy nhiên, việc quản lý vi bằng hiện nay còn phân tán, chủ yếu là lưu trữ giấy tờ, gây khó khăn cho công tác tra cứu, xác minh tính hợp pháp và phòng rủi ro rủi ro. Cơ sở dữ liệu về Vi là hệ thống lưu trữ các thông tin vi đã được thiết lập.
Cơ sở dữ liệu về vi được quy định tại Điều 31 Thông tư 05/2020/TT-BTP, cụ thể như sau:
“1. Cơ sở dữ liệu về vi phải có các thông tin chính sau đây:
a) Tên Văn phòng Thừa lại; họ, tên Thừa phát lại vi bằng;
b) Họ, tên, địa chỉ người dùng yêu cầu cài đặt; họ, tên người tham gia khác (nếu có);
c) Địa điểm, thời gian lập vi bằng; nội dung chính của sự kiện, hành động được ghi nhận;
d) Cập nhật thời gian, duyệt nội dung cập nhật, chứng minh tài liệu (nếu có) trên cơ sở dữ liệu;
đ) Bản sao điện tử, chứng từ tài liệu (nếu có);
e) Thông tin về việc làm, tài liệu chứng minh vi phạm quy định của Nghị định số 08/2020/ND-CP và giải pháp xử lý, giải quyết (nếu có).
2. Sở pháp luật xây dựng cơ sở dữ liệu về vi bằng và cấm quản lý chế độ hành động, sử dụng cơ sở dữ liệu về vi bằng tại địa phương.
Cơ sở dữ liệu về vi phải đảm bảo an toàn, bảo mật, thuận tiện trong quá trình quản lý, sử dụng và có khả năng kết nối với các Văn phòng Thừa phát lại tại địa phương.
Quy chế quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về vi phải xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, sử dụng và quản lý chi phí, vận hành, sử dụng (nếu có”).
Có thể thấy, CSDL vi bằng do Sở Tư pháp địa phương quản lý đóng vai trò trung tâm trong hệ thống quản lý Thừa phát lại. Cơ sở này có chức năng lưu trữ toàn diện các thông tin cần thiết, từ chi tiết Văn phòng Thừa phát lại, người yêu cầu, nội dung vi bằng, cho đến bản sao điện tử. Thông qua hệ thống này, công tác quản lý nhà nước, hoạt động đào tạo được thuận lợi hơn, đồng thời tăng cường kết nối hiệu quả với các Văn phòng Thừa phát lại, đảm bảo tính an toàn, bảo mật và minh bạch cao cho các vi bằng đã được lập.
3. Một số bất cập, hạn chế trong việc trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu về vi bằng
Mặc dù việc triển khai xây dựng CSDL về vi bằng là quan trọng, cấp thiết, tuy nhiên thực tế triển khai đang đối mặt với nhiều hạn chế và bất cập, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thiếu sự đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc
Hạn chế lớn nhất hiện nay là việc mỗi địa phương được giao tự xây dựng CSDL theo hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật riêng biệt. Điều này dẫn đến tình trạng: Khó khăn trong kết nối, chia sẻ dữ liệu: Do thiếu tiêu chuẩn chung, việc tích hợp, liên thông dữ liệu giữa CSDL của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gặp nhiều rào cản kỹ thuật; Chưa tạo thành hệ thống tập trung: Dữ liệu bị phân mảnh, gây khó khăn cho công tác quản lý chung của Bộ Tư pháp và các cơ quan trung ương, cũng như cho việc tra cứu liên tỉnh.
Thứ hai, tỷ lệ triển khai thấp và chưa hiệu quả ở địa phương.
Như thông tin đã nêu, từ năm 2020 đến tháng 9/2025, mới chỉ có 04/63 tỉnh, thành phố đã xây dựng CSDL về vi bằng và đi vào hoạt động. Điều này cho thấy: Chậm tiến độ: Việc triển khai rất chậm so với yêu cầu thực tế và chủ trương chuyển đổi số của Đảng và Nhà nước; Sự chênh lệch giữa các địa phương: Có sự khác biệt lớn về mức độ quan tâm, đầu tư hạ tầng và nguồn lực giữa các tỉnh, thành phố, dẫn đến hiệu quả quản lý không đồng đều.
Thứ ba, vướng mắc về thể chế, hạ tầng và nguồn lực.
Mặc dù Bộ Tư pháp có hướng dẫn chung, nhưng việc thiếu các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật chi tiết, đồng bộ đã khiến các địa phương lúng túng trong quá trình triển khai. Về hạ tầng công nghệ thông tin: Nhiều địa phương chưa có hạ tầng công nghệ đủ mạnh để xây dựng và vận hành một CSDL lớn, đảm bảo an toàn, bảo mật. Về nguồn kinh phí và nhân lực: Việc bố trí kinh phí thỏa đáng và nhân lực có chuyên môn để xây dựng, vận hành và quản lý CSDL vẫn còn là thách thức tại nhiều địa phương.
Thứ tư, bất cập trong việc khai thác và sử dụng dữ liệu.
Mặc dù vi bằng là nguồn chứng cứ quan trọng, nhưng việc khai thác CSDL để phục vụ hoạt động tố tụng, xét xử vẫn còn hạn chế do những vướng mắc về tính liên thông và khả năng truy cập. Các cơ quan chức năng khi cần xác minh tính xác thực của vi bằng vẫn gặp khó khăn trong việc tra cứu thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Những hạn chế này cho thấy sự cần thiết phải có một giải pháp mang tính đột phá và đồng bộ hơn để khắc phục tình trạng phân tán, thiếu hiệu quả hiện nay, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển kinh tế số và xã hội số.
4. Một số giải pháp đảm bảo xây dựng cơ sở dữ liệu về vi bằng đạt hiệu quả
Để khắc phục những bất cập và hạn chế hiện nay trong công tác xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu (CSDL) về vi bằng, việc triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp mang tính đột phá là yêu cầu tất yếu, nhằm hiện thực hóa tinh thần chuyển đổi số quốc gia của Nghị quyết số 57-NQ/TW.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và tiêu chuẩn hóa hệ thống. Đây là giải pháp nền tảng nhằm giải quyết tình trạng thiếu đồng bộ, phân tán dữ liệu. Cần tập trung vào việc ban hành khung pháp lý và các tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất. Bộ Tư pháp cần chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các Bộ, ngành liên quan để sớm ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia bắt buộc cho CSDL vi bằng, bao gồm cấu trúc dữ liệu, định dạng, giao thức kết nối và quy định an toàn thông tin mạng. Đồng thời, thay vì để các địa phương tự xây dựng riêng lẻ, cần có lộ trình xây dựng một CSDL vi bằng quốc gia tập trung, đảm bảo khả năng liên thông, kết nối từ cấp địa phương lên trung ương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu, chia sẻ dữ liệu thống nhất. Bên cạnh đó, việc ban hành các quy định chi tiết về quyền truy cập, khai thác thông tin từ CSDL cho các cơ quan chức năng (Tòa án, Viện kiểm sát, công chứng, v.v.) và người dân là cần thiết, nhằm đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin cá nhân.
Thứ hai, đẩy mạnh đầu tư hạ tầng và ứng dụng công nghệ hiện đại. Nhằm khắc phục hạn chế về hạ tầng, cần đảm bảo hệ thống máy chủ, đường truyền, phần mềm quản lý CSDL được đầu tư đồng bộ, hiện đại, có khả năng mở rộng để đáp ứng yêu cầu lưu trữ và xử lý lượng lớn dữ liệu. Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến như blockchain (để tăng cường tính bất biến, an toàn của vi bằng gốc), trí tuệ nhân tạo (để hỗ trợ tra cứu thông minh), và các giải pháp bảo mật nhiều lớp là cần thiết. Song song đó, việc xây dựng và triển khai các phương án bảo mật, phòng ngừa tấn công mạng, bảo vệ dữ liệu vi bằng khỏi rò rỉ, mất mát hoặc bị sửa đổi trái phép phải được ưu tiên hàng đầu.
Thứ ba, tăng cường nguồn lực và nâng cao năng lực chuyên môn. Để khắc phục tình trạng chậm triển khai và sự chênh lệch giữa các địa phương, cần bố trí đủ kinh phí bằng cách đưa việc xây dựng CSDL vi bằng vào danh mục các dự án ưu tiên về chuyển đổi số của ngành tư pháp, đảm bảo nguồn ngân sách và kêu gọi các nguồn vốn xã hội hóa hợp pháp. Bên cạnh đó, công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là trọng tâm, thông qua việc tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về quản trị CSDL, công nghệ thông tin và an toàn thông tin cho đội ngũ cán bộ tư pháp các cấp, đặc biệt là tại Sở Tư pháp và Văn phòng Thừa phát lại.
Thứ tư, thúc đẩy sự phối hợp và khai thác hiệu quả dữ liệu. Cần thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan liên quan trong việc xây dựng và sử dụng CSDL vi bằng làm chứng cứ pháp lý. Song song với đó, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của CSDL vi bằng trong công tác quản lý nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Khuyến khích sử dụng CSDL vi bằng trong các hoạt động pháp lý, tố tụng, giao dịch dân sự để tối ưu hóa giá trị của nguồn dữ liệu này.
Việc triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp trên sẽ giúp khắc phục triệt để những hạn chế hiện nay, đưa CSDL vi bằng trở thành một công cụ đắc lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về tư pháp, hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số và xây dựng nền tư pháp hiện đại của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Khoản 2, 3, 4 Điều 36 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP.
[2] Nguyễn Vinh Hưng (2017), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, Tạp chí Kiểm sát điện tử, nguồn: https://kiemsat.vn/thua-phat-lai-trong-thi-hanh-an-dan-su-46727.html
[3] Vi bằng và những vấn đề cần lưu ý. Nguồn: https://stp.thuathienhue.gov.vn/?gd=12&cn=82&tc=6620
Ý kiến bạn đọc