Ths. Phan Thị Phương Huyền - Ths. Nguyễn Hoàng Lê Khanh
Trong giai đoạn hiện nay khi sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển bền vững của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng lớn bởi hệ thống pháp lý và mức độ hỗ trợ pháp lý từ Nhà nước. Ngày 24/6/2019 Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp. Quá trình thực thi Nghị định đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận các thông tin pháp luật một cách nhanh chóng; chế độ, chính sách, pháp luật được giới thiệu kịp thời, từ đó trang bị thêm kiến thức pháp luật cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong triển khai dự án cũng như giải quyết tốt các thủ tục hành chính có liên quan; các khó khăn, vướng mắc được giải đáp kịp thời; cải thiện môi trường, hạn chế rủi ro trong đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp
. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm triển khai, Nghị định này đã bộc lộ nhiều bất cập trong nội dung và thực tiễn thi hành, ảnh hưởng đến hiệu quả và mục tiêu đề ra. Vì vậy cần có sự nhìn nhận một cách tổng quan và kịp thời có những sửa đổi phù hợp cho sự phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, phạm vi đối tượng hỗ trợ còn tương đối hẹp
Quy định về đối tượng áp dụng của Nghị định (Điều 2) chỉ bao gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017. Quy định này còn mang tính hạn chế, dẫn đến việc bỏ sót một số đối tượng khác cũng đang gặp nhiều khó khăn về mặt pháp lý và cần được hỗ trợ trong thực tiễn. Cụ thể, hộ kinh doanh đang trong quá trình chuyển đổi thành doanh nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo chưa đủ điều kiện phân loại là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã và các tổ chức kinh tế có tính chất tương tự đều là những chủ thể có nhu cầu cấp thiết về tiếp cận thông tin pháp luật và tư vấn pháp lý để phát triển bền vững. Do đó, đề nghị bổ sung nội dung theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng được khuyến khích áp dụng, cụ thể: “
Khuyến khích áp dụng các chính sách hỗ trợ pháp lý quy định tại Nghị định này đối với hộ kinh doanh có nhu cầu chuyển đổi, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, hợp tác xã và tổ chức kinh tế có tính chất tương tự.” Việc mở rộng này vừa bảo đảm tính linh hoạt trong thực thi chính sách, vừa đáp ứng yêu cầu hỗ trợ toàn diện, đúng đối tượng trong bối cảnh thực tiễn hiện nay. Bên cạnh đó cho phép áp dụng linh hoạt tiêu chí xác định đối tượng hỗ trợ, kết hợp giữa tiêu chí định lượng (lao động, doanh thu) và định tính (tính đổi mới, thời gian hoạt động, lĩnh vực ngành nghề có tác động lớn đến thị trường...). Đồng thời, tăng cường hướng dẫn chi tiết cho các địa phương trong việc xác định doanh nghiệp đủ điều kiện hỗ trợ, hạn chế tình trạng lúng túng, bỏ sót.
Thứ hai, thứ tự ưu tiên trong hỗ trợ pháp lý đoanh nghiệp còn thiếu tính linh hoạt
Thứ tự ưu tiên trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (khoản 4 Điều 4), nội dung này tuy đã bước đầu xác định một số nhóm đối tượng cần được quan tâm, nhưng còn bộc lộ một số bất cập. Cụ thể, các tiêu chí ưu tiên hiện tại chưa phản ánh đầy đủ các nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp khó khăn hoặc có tiềm năng đóng góp lớn cho nền kinh tế, dễ bị tổn thương trước biến động thị trường, thiên tai, dịch bệnh hoặc điều kiện địa lý bất lợi. Đồng thời, thứ tự ưu tiên còn mang tính cứng nhắc, chưa bảo đảm tính linh hoạt trong quá trình tổ chức thực hiện tại các địa phương. Do đó, đề nghị sửa đổi khoản 4, Điều 4 theo hướng mở rộng và hoàn thiện các tiêu chí xác định đối tượng ưu tiên. Bên cạnh các nhóm doanh nghiệp đã được quy định như doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ hoặc người khuyết tật, cần bổ sung thêm một số nhóm như: doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; doanh nghiệp hoạt động tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh hoặc biến động lớn của nền kinh tế.
Thứ ba, hình thức hỗ trợ còn mang tính hình thức, dàn trải
Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với các hình thức chính sau: cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, và tư vấn pháp luật. Các hình thức này được thực hiện thông qua các chương trình hỗ trợ pháp lý do cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, các hoạt động như tổ chức hội thảo, phổ biến pháp luật, biên soạn tài liệu thường thiếu tính chuyên sâu, không sát với thực tiễn kinh doanh. Một số hoạt động vẫn mang tính "đánh trống ghi tên", chưa đáp ứng được nhu cầu “trúng và đúng” của doanh nghiệp. Hơn nữa, chưa có cơ chế đánh giá chất lượng, hiệu quả của hoạt động hỗ trợ, dẫn đến việc thiếu động lực nâng cao chất lượng từ các đơn vị thực hiện.
Để nâng cao hiệu quả của các hình thức hỗ trợ nhóm tác giả đề xuất sửa đổi quy định này chuyển từ mô hình phổ biến pháp luật đại trà sang tư vấn theo tình huống cụ thể, có thể tổ chức theo nhóm ngành/lĩnh vực hoặc địa bàn đặc thù; thiết lập bộ chỉ số đánh giá chất lượng chương trình, bao gồm: tỷ lệ phản hồi tích cực từ doanh nghiệp, số lượng vấn đề được giải quyết, tác động đến sản xuất - kinh doanh,...; có các quy định cụ thể về gắn trách nhiệm giải trình cũng như chế tài xử lý nếu tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ kém chất lượng, mang tính hình thức.
Thứ tư,
chủ thể hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế
Theo quy định tại Nghị định số 55/2019/NĐ-CP chủ thể hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ có thể là các cơ quan hành chính nhà nước (Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh). Các tổ chức đại diện doanh nghiệp nếu có tham gia hỗ trợ pháp lý cũng chỉ ở vai trò hỗ trợ, phối hợp nhưng thực tế các tổ chức đại diện này vẫn thường xuyên tiến hành hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp một cách độc lập. Do đó, việc quy định này sẽ hạn chế sự tham gia của các tổ chức đại diện doanh nghiệp trong việc tham gia hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
[1] Nhằm phát huy tối đa vai trò các chủ thể trong hoạt động hỗ trợ pháp lý đề xuất sửa đổi quy định này theo hướng mở rộng số lượng các chủ thể hỗ trợ bên cạnh các cơ quan hành chính nhà nước như sau: “
Các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiệp hội ngành nghề, hội doanh nghiệp, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp được phép chủ trì tổ chức các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, phù hợp với năng lực chuyên môn và điều kiện thực tế, trên cơ sở đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”.
Thứ năm,
căn cứ xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay chưa phù hợp với thực tiễn
Tại khoản 1 Điều 10 quy định về căn cứ xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã xác định đúng và phù hợp khi lấy nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và chương trình xây dựng pháp luật làm cơ sở xây dựng chương trình. Tuy nhiên, bên cạnh những căn cứ truyền thống, quy định hiện tại còn thiếu một số căn cứ quan trọng, đặc biệt là chưa đề cập đến chiến lược chuyển đổi số quốc gia và định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý. Đồng thời, việc xác định nhu cầu hỗ trợ pháp lý còn phụ thuộc nhiều vào đánh giá chủ quan của cơ quan nhà nước, mà chưa gắn với dữ liệu khảo sát, thống kê định kỳ một cách bài bản và khách quan. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng bổ sung thêm các căn cứ như: “định hướng chuyển đổi số quốc gia” và “kết quả khảo sát, thống kê nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa do cơ quan có thẩm quyền thực hiện” để bảo đảm việc xây dựng chương trình được thực hiện trên nền tảng khoa học, thực tiễn và hiệu quả hơn.
Thứ sáu, chưa phát huy hiệu quả của đội ngũ luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư là lực lượng chuyên nghiệp có năng lực hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả, nhưng Nghị định chỉ dừng ở mức “có thể mời tham gia”. Song song với đó là thiếu cơ chế hợp tác rõ ràng, thiếu cơ chế chi trả hợp lý, khiến lực lượng này ít được huy động một cách thực chất. Vì vậy, để có thể huy động một cách tối đa lực lượng này Nghị định cần được sửa đổi theo hướng bổ sung quy định bắt buộc tỷ lệ tham gia của luật sư trong các chương trình hỗ trợ pháp lý cấp tỉnh hoặc theo từng ngành; tăng cường các mô hình “
luật sư đồng hành với doanh nghiệp”; Xây dựng cơ chế đặt hàng dịch vụ pháp lý từ các tổ chức hành nghề luật sư, dựa trên năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tế; đồng thời tăng định mức chi trả, đảm bảo quyền lợi cho luật sư tham gia, có thể từ ngân sách nhà nước, quỹ phát triển doanh nghiệp hoặc xã hội hóa.
Với việc ban hành và triển khai Nghị định số 55/2019/NĐ-CP thời gian qua là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa chính sách hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường, Nghị định đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập cần được sửa đổi nhằm phù hợp hơn với thực tiễn, giúp doanh nghiệp trang bị đầy đủ hành trang pháp lý, qua đó góp phần cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, hạn chế doanh nghiệp rút khỏi thị trường./.
[1] https://tuphap.hatinh.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/kien-nghi-hoan-thien-mot-so-quy-dinh-phap-luat-ve-ho-tro-phap-ly-cho-doanh-nghiep-nho-va-vua
Ý kiến bạn đọc