14:47 ICT Thứ hai, 01/07/2024 1
     

    Chuyên mục

    thành viên

    Lượt truy cập

    • Đang truy cập: 0
    • Hôm nay: 170092
    • Tháng hiện tại: 170092
    • Tổng lượt truy cập: 40655448

    Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu khoa học » Nghiên cứu trao đổi

    Thực trạng pháp luật về sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam

    Thứ năm - 24/08/2023 15:04

    1. Thực trạng quy định của pháp luật về sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam

    Thứ nhất, quy định về độ tuổi và các công việc của lao động chưa thành niên.
    Theo quy định tại Điều 2 Công ước về Độ tuổi tối thiểu của ILO năm 1973 (Công ước số 138), độ tuổi lao động được xác định là không dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi tối thiểu này không áp dụng cho những công việc phụ giúp gia đình hay tham gia vào sản xuất nhỏ tại gia đình[1]. Bên cạnh đó, pháp luật quốc gia có thể quy định cho phép trẻ em 12 tuổi làm những việc nhẹ, miễn là không gây hại tới sự phát triển và không ảnh hưởng đến việc học tập của trẻ em[2]. Đối với các công việc nặng và đặc thù, bất kỳ công việc hoặc nghề nghiệp nào mà tính chất hoặc điều kiện tiến hành có thể có hại cho sức khỏe, sự an toàn hoặc đạo đức của thanh thiếu niên thì mức tuổi lao động tối thiểu không được dưới 18 tuổi[3].
    Về vấn đề này, pháp luật lao động Việt Namquy định độ tuổi lao động tối thểu là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp lao động chưa thành niên[4]. Bên cạnh đó, Điều 143 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về lao động chưa thành niên như sau:
    - Lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi.
    - Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được làm công việc quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Lao động năm 2019[5]; không được làm việc tại các nơi được quy định tại khoản 2 Điều 147 Bộ luật Lao động năm 2019[6].
    - Người từ đủ Người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo quy định tại khoản 3 Điều 143 Bộ luật Lao động năm 2019 và Phụ lục II ban hành kèm theoThông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2020 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động chưa thành niên (Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH)[7].
    - Người chưa đủ 13 tuổi chỉ được làm các công việc về nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh[8].
    Về cơ bản, quy định về độ tuổi lao động của pháp luật lao động Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn lao động quốc tế quy định tại Công ước số 138 của ILO và có tính linh hoạt cao tùy theo điều kiện, lĩnh vực làm việc. Về danh mục các công việc và nơi làm việc được sử dụng lao động chưa thành niên đã có tính đa dạng, bao quát, tuy nhiên, Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH hầu như đang tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp nặng và khu vực chính thức mà chưa đề cập nhiều đến ngành nông nghiệp (cày, bừa, thu hoạch nông sản…), ngư nghiệp (làm muối…) và một số công việc ở khu vực phi chính thức (giúp việc gia đình, lao động trên nền tảng internet, lao động tại các cơ sở làm đẹp…). Trong khi đó, những địa điểm và ngành nghề này thực tế đang sử dụng rất nhiều lao động chưa thành niên.
    Thứ hai, quy định về thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi đối với người lao động chưa thành niên.
    Về thời giờ làm việc, người chưa đủ 15 tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần, đồng thời không được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm[9]; việc bố trí thời giờ làm việc phải bảo đảm không ảnh hưởng đến thời gian học tập[10]. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần (giảm 08 giờ/tuần so với người lao động trên 18 tuổi); có thể được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm 22h đến 6h sáng ngày hôm sau) trong một số nghề, công việc theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành[11].
    Về thời giờ nghỉ ngơi, người lao động chưa thành niên được áp dụng giống như người lao động đã thành niên theo quy định tại Mục 2 Chương VII Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động. Bên cạnh đó, người lao động chưa thành niên cũng có quy định riêng về thời giờ làm việc tại Điều 146 Bộ luật Lao động năm 2019 phù hợp với đặc điểm của sức khỏe, tinh thần phù hợp với độ tuổi đang phát triển của đối tượng này. Số ngày nghỉ hàng năm đối với lao động chưa thành niên là 14 ngày làm việc/năm (hơn 02 ngày/năm so với lao động đã thành niên)nếu làm việc trong điều kiện bình thường[12].
    Nhìn chung, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với người lao động chưa thành niên được quy định linh hoạt và rút ngắn hơn so với lao động đã thành niên, phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế và đảm bảo được mục đích tạo điều kiện cho nhóm lao động này có thời gian tham gia học tập và phát triển toàn diện về mọi mặt. Các mức độ thời gian làm việc tương ứng với từng nhóm độ tuổi đã được các nghiên cứu để có thể phù hợp nhất, đảm bảo các tiêu chí cho người lao động chưa thành niên. Tuy nhiên, quy định người lao động từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có thể làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số trường hợp là chưa thực sự phù hợp với Khuyến nghị số 146 của ILO, trong đó nêu rõ: Cấm làm thêm giờ đối với lao động trẻ em để tạo đủ thời gian cho việc giáo dục, nghỉ ngơi và các hoạt động khác. Đồng thời, dưới góc độ sinh lý học, độ tuổi này, việc làm thêm giờ và làm việc vào ban đêm (từ 22h đếm đến 6h sáng hôm sau) ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất, và tinh thần của các em.
    Thứ ba,về thanh tra và các chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng lao động chưa thành niên
    Vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về lao động được quy định tại Chương XVI Bộ luật Lao động năm 2019. Nhìn chung, quy định này áp dụng cho người lao động chưa thành niên giống như áp dụng cho người lao động trưởng thành. Hiện nay, chưa có thanh tra chuyên ngành về lao động chưa thành niên trong lĩnh vực lao động. Công tác thanh tra liên quan đến lao động chưa thành niên vẫn được phân công cho các thanh tra lao động nói chung. Trong khi đó, theo số liệu thống kê, có tới 2/3 số trẻ em làm 21 nhóm công việc, bao gồm 08 công việc thuộc lĩnh vực nông nghiệp - ngư nghiệp, 07 công việc thuốc lĩnh vực dịch vụ và 06 công việc thuộc lĩnh vực công nghiệp[13]. Đây là khu vực sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ, chủ yếu là lao động tại các hộ kinh doanh gia đình, lực lượng thanh tra ít tiếp cận.
    Hiện nay,có 02 biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật lao động về sử dụng người lao động chưa thành niênđó là xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Về chế tài hành chính, mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về lao động chưa thành niên được quy định tại Điều 29 Nghị định số 12/2022/NĐ-CPngày 17/01/2022 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Nghị định số 12/2022/NĐ-CP), trong đó, đối với hành vi không lập sổ theo dõi riêng hoặc có lập sổ theo dõi riêng nhưng không ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 3 Điều 144 của Bộ luật Lao động năm 2019 khi sử dụng lao động chưa thành niên hoặc không xuất trình sổ theo dõi khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu bị phạt tiền từ mức 1.000.000 đến 2.000.000 đồng[14]. Đây là một mức phạt rất nhỏ so với tình hình kinh tế, phát triển hiện tại. Từ đó, người sử dụng lao động sẳn sàng đóng phạt chứ không chú trọng đến vấn đề chấp hành pháp luật, do đó, mức phạt này chưa đủ sức răn đe đối với người vi phạm quy định về việc sử dụng lao động chưa thành niên.
    Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định truy cứu trách nhiệm hình sự với người sử dụng lao động sử dụng lao động dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định pháp luật[15]. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động quy định lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Do đó, Bộ luật Hình sự chưa có quy định về chế tài xử phạt đối với người sử dụng lao động sử dụng lao động từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng.
    2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động chưa thành niên
    Để hoàn thiện pháp luật về sử dụng lao động chưa thành niên ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số nội dung như sau:
    Thứ nhất,cần bổ sung các công việc và nơi làm việc ở khu vực phi chính thức như: giúp việc gia đình, lao động trên nền tảng internet… vào danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên, đồng thời quy định rõ phạm vi làm việc của lao động chưa thành niên trong các công việc này.
    Thứ hai, về thời giờ làm việccủa người lao động chưa thành niên, cần bãi bỏ quy định người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề, công việc tại khoản 2 Điều 146 Bộ luật Lao động năm 2019. Bởi vì, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện, đồng thời, đây là đối tượng cần được tạo mọi điều kiện để phát triển về sức khỏe, thể chất và tinh thần, do đó, các công việc dù nặng nhọc hay không khi phải làm thêm thì đều ảnh hưởng ít nhiều đến sự phát triển của nhóm người này. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các em được phát triển đẩy đủ, toàn diện thì pháp luật lao động nên bãi bỏ quy định này. Ngoài ra, cần bổ sung thêm quy định về chế độ nghỉ ngơi riêng đối với lao động chưa thành niên.
    Thứ ba, cần quy định biện pháp xử lý hữu hiệu và mạnh mẽ hơn đối với người sử dụng lao động khi có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng người lao động chưa thành niên. Cụ thể: nâng mức phạt tiền đối với biện pháp phạt tiền trong xử lý hành chính; bổ sung quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người sử dụng lao động vi phạm quy định trong việc sử dụng người lao động từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi làm các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng. Vì cơ chế xử lý hiện nay chưa nghiêm khắc cũng như chỉ mới mang tính chất “cảnh cáo” nên nhiềulao động chưa thành niên vẫn bị người sử dụng lao động lạm dụng.
    Thứ tư, nên bổ sung một số quy định về quản lý, giám sát lao động ở khu vực phi chính thức. Điều này,giúp cơ quan quản lý nhà nước về lao động có thể dễ dàng quản lý, giảm sát được việc sử dụng lao động chưa thành niên, đặc biệt ở nhóm không có quan hệ lao động (lao động phi chính thức). Vì có rất nhiều mặt hàng, ngành hàng xuất khẩu của ta hiện nay như thủy hải sản xuất khẩu, trồng trọt... xuất phát từ khu vực kinh tế không chính thức và nguy cơ sử dụng lao động chưa thành niên trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng nhiều hơn. Vì vậy, các biện pháp phòng ngừa phải bắt đầu từ hành lang pháp lý để có những quy định đầy đủ về sử dụng lao động chưa thành niên và từ đó có thể nâng cao sự bảo vệ của Nhà nước đối với đối tượng này./.
     

    [1]Điều 5 Công ước về Độ tuổi tối thiểu năm 1973 (Công ước số 138)
    [2]Điều 7 Công ước về Độ tuổi tối thiểu năm 1973 (Công ước số 138)
    [3]Điều 3 Công ước về Độ tuổi tối thiểu năm 1973 (Công ước số 138)
    [4]Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019
    [5]Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; Sản xuất, kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần hoặc chất gây nghiện khác; Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; Phá dỡ các công trình xây dựng; Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại; Lặn biển, đánh bắt thủy, hải sản xa bờ; Công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH.
    [6]Cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm việc ở các nơi sau đây: Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm;Công trường xây dựng; Cơ sở giết mổ gia súc;Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở tắm hơi, cơ sở xoa bóp; điểm kinh doanh xổ số, dịch vụ trò chơi điện tử; Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên quy định tại Phụ lục IV ban hành kèm theo Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH. 
    [7] Biểu diễn nghệ thuật; Vận động viên thể thao; Lập trình phần mềm; Các nghề truyền thống; Các nghề thủ công mỹ nghệ; Đan lát, làm các đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên; Gói nem, gói kẹo, gói bánh; Nuôi tằm; Làm cỏ vườn rau sạch; thu hoạch rau, củ, quả sạch theo mùa; Chăn thả gia súc tại nông trại; Phụ gỡ lưới cá, đan lưới cá, phơi khô thủy sản; Cắt chỉ, đơm nút, thùa khuyết, đóng gói vào hộp các sản phẩm dệt thủ công…
    [8]Khoản 3 Điều 145 Bộ luật Lao động năm 2019
    [9]Khoản 1 Điều 146 Bộ luật Lao động năm 2019
    [10]Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH
    [11]Khoản 2 Điều 146 Bộ luật Lao động năm 2019
    [12]Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019
    [13] Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2018
    [14]Khoản 1 Điều 29 Nghị định số 12/2022/NĐ-CP
    [15] Khoản 1 Điều 296 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2019

    Tác giả bài viết: ThS. Đặng Thị Thuần
     

    Hỏi đáp pháp luật

    Hình ảnh hoạt động

    • 1
    • 1
    • 1
    • 1
    • 1

    Liên kết website

    Video

    Trường Trung cấp Luật Đồng Hới- Quảng Bình