04:25 ICT Thứ tư, 07/05/2025 1
     

    Chuyên mục

    thành viên

    Lượt truy cập

    • Đang truy cập: 0
    • Hôm nay: 23268
    • Tháng hiện tại: 605772
    • Tổng lượt truy cập: 82803252

    Trang nhất » Tin Tức » Nghiên cứu khoa học » Nghiên cứu trao đổi

    Thực tiễn thi hành pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả về quyền gia nhập thị trường ở Việt Nam

    Thứ tư - 16/04/2025 15:00

    Th.S Lê Thị Hiền; CN. Nguyễn Thị Ngọc Hoài
    1. Thực tiễn thi hành pháp luật về quyền gia nhập thị trường ở Việt Nam
    1.1. Thực tiễn thi hành nội dung quyền gia nhập thị trường
    Một trong những quy định mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất, được đánh giá cao nhất để bảo đảm quyền gia nhập thị trường (QGNTT) kinh doanh của doanh nghiệp là Phụ lục 4 của LĐT, theo đó, chỉ có những ngành nghề kinh doanh thuộc Phụ lục 4 thì mới thuộc diện phải xin các loại giấy phép con trước khi kinh doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn xuất hiện các loại “giấy phép con” gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức gia nhập thị trường. Thậm chí, một số tài liệu còn sử dụng cụm từ “cài cắm giấy phép con” để miêu tả thực tế tình hình ban hành điều kiện đầu tư, kinh doanh[1].
    (i) Quy định về điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề không thuộc đầu tư, kinh doanh có điều kiện
    Trong lĩnh vực đào tạo nghiệp vụ điều hành du lịch. Dịch vụ đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch cũng không thuộc danh mục Phụ lục 4 của Luật Đầu tư năm 2020 (LĐT). Tuy nhiên, tại Thông tư 06/2017/TT-BVHTTDL, Điều 5 quy định về các tiêu chí để xin phép cung cấp dịch vụ tổ chức thi, cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch. Các điều kiện cụ thể như phải có chuyên ngành đào tạo; đề án tổ chức thi, quy trình, cơ sở vật chất, hội đồng thi; lý lịch (không vi phạm các quy định về tổ chức thi, cấp chứng chỉ). Các quy định này được hiểu là các điều kiện để một cơ sở đào tạo được phép đào tạo và cấp chứng chỉ nghiệp vụ điều hành du lịch và là một dạng điều kiện kinh doanh. Theo quy định Điều 7 LĐT, điều kiện kinh doanh chỉ có thể được quy định trong văn bản từ cấp Nghị định trở lên. Vì vậy, việc Thông tư quy định về các điều kiện này là không phù hợp.
    (ii) Các điều kiện định tính, thiếu định lượng, thiếu minh bạch
    Việc xây dựng các quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh gần đây vẫn có trường hợp đưa ra các điều kiện chung chung, định tính, không minh bạch.
    Trong lĩnh vực kinh doanh điện mặt trời mái nhà, vào đầu tháng 1/2022, nhiều cá nhân và hộ gia đình có hệ thống điện mặt trời mái nhà nhận được thông báo của các Tổng công ty Điện lực yêu cầu các chủ đầu tư điện mặt trời mái nhà phải đăng ký, bổ sung ngành nghề kinh doanh bán điện theo quy định của pháp luật, để đảm bảo việc thanh toán tiền điện không bị gián đoạn. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 và Phụ lục IV của Luật Đầu tư năm 2020 thì hoạt động phát điện thuộc danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Theo quy định tại Khoản 16 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực: “Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép để thực hiện một hoặc nhiều lĩnh vực hoạt động điện lực”, Điểm b Khoản 1 Điều 34 Luật Điện lực quy định một trong các trường hợp được miễn trừ giấy phép hoạt động điện lực là: Tổ chức, cá nhân hoạt động phát điện có công suất lắp đặt dưới mức công suất theo quy định của Bộ Công Thương. Theo đó, căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 21/2020/ TT-BCT ngày 9/9/ 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về trình tự, thủ tục cấp giấy phép hoạt động điện lực, trường hợp “Phát điện có công suất lắp đặt đến 01 MW để bán điện cho tổ chức, cá nhân khác” thuộc trường hợp được miễn trừ giấy phép hoạt động điện lực.
    Như vậy, theo các quy định pháp luật về đầu tư và pháp luật về điện lực tổ chức, cá nhân có hoạt động phát điện có công suất lắp đặt đến 01 MW nói chung và tổ chức, cá nhân có hệ thống điện mặt trời mái nhà có công suất lắp đặt đến 01 MW nói riêng phải tuân thủ các điều kiện đối với hoạt động phát điện và được miễn trừ giấy phép hoạt động điện lực. Từ vụ việc trên cho thấy thực tiễn thi hành đối với các ngành nghề ghi trong Phụ lục IV của Luật Đầu tư năm 2020 cần phải đối chiếu với quy định cụ thể của luật chuyên ngành, tránh dẫn đến trường hợp thực thi không đúng pháp luật.
    (iii) Yêu cầu không phù hợp thực tiễn về điều kiện của người đứng đầu cơ sở Một trong những điều kiện đầu tư kinh doanh thường được quy định đó là trình độ của người đứng đầu doanh nghiệp (thường là người đại diện theo pháp luật hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị). Những quy định như thế này đã gây nhiều vấn đề vướng mắc cho các doanh nghiệp kinh doanh đa ngành từ nhiều năm nay.
    Luật Luật sư cũng có quy định là người đứng đầu công ty luật phải là luật sư. Khá nhiều các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay tư vấn đa ngành, gồm cả tài chính, kế toán, thuế, hải quan, pháp luật. Để đáp ứng quy định trên, doanh nghiệp buộc phải thành lập thêm một công ty con để cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và một công ty mẹ tư vấn các dịch vụ khác. Điều này khiến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp bị đảo lộn. Khi có khách hàng thuê dịch vụ tư vấn, doanh nghiệp buộc phải yêu cầu khách hàng ký hai hợp đồng, một hợp đồng với công ty con để tư vấn nội dung pháp lý, một hợp đồng với công ty mẹ để tư vấn các nội dung khác. Việc này không chỉ tạo thêm gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp mà còn có thể khiến doanh nghiệp mất khách hàng. Các giao dịch thuê văn phòng, tuyển dụng lao động, mua sắm máy tính, văn phòng phẩm của doanh nghiệp cũng phải tách riêng. Doanh nghiệp phải làm hai hệ thống sổ sách báo cáo, một hệ thống gồm hai công ty để báo cáo với Nhà nước, một hệ thống khác gộp chung lại để sử dụng nội bộ. Các vấn đề khác phát sinh như không thể phân biệt thứ bậc trông công ty, điều chuyển nhân sự, thư ký giữa hai công ty gặp khó khăn. Trong quá trình cắt giảm các điều kiện đầu tư kinh doanh các năm trước, các điều kiện về bằng cấp và trình độ của người đứng đầu doanh nghiệp đã được bãi bỏ khá nhiều. Trong trường hợp cần thiết, nhằm bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ, các cơ quan soạn thảo đều đã chuyển sang yêu cầu bằng cấp, trình độ của người trực tiếp sản xuất, trực tiếp cung cấp dịch vụ mà không nhất thiết phải là người đứng đầu doanh nghiệp. Quy định như vậy vẫn bảo đảm được yêu cầu quản lý của Nhà nước mà vẫn tại được sự linh hoạt cho doanh nghiệp khi bố trí nhân sự. Tuy nhiên, trong năm 2020, các quy định pháp luật yêu cầu người đứng đầu doanh nghiệp phải có bằng cấp, trình độ vẫn được soạn thảo hoặc ban hành và gây rất nhiều vướng mắc cho các doanh nghiệp.[2]
    Bên cạnh đó, tiêu chí xác định ngành nghề kinh doanh có điều kiện chưa rõ ràng LĐT quy định, ngành nghề kinh doanh có điều kiện là ngành nghề “phải đáp ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Các tiêu chí như an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội... quá rộng. Với những tiêu chí như vậy, không một ngành, một hoạt động kinh doanh nào là không ảnh hưởng đến các vấn đề đó. Như vậy đồng nghĩa, nếu muốn xếp ngành nào vào danh mục kinh doanh có điều kiện, cơ quan quản lý không khó để có thể lập luận và biện giải phù hợp theo chủ ý của mình.
    1.2. Thực tiễn thi hành thủ tục đăng ký gia nhập thị trường
    Tính chung cả năm 2022, cả nước có 148,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.590,9 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 981,3 nghìn lao động, tăng 27,1% về số doanh nghiệp, giảm 1,3% về vốn đăng ký và tăng 14,9% về số lao động so với năm trước. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2022 đạt 10,7 tỷ đồng, giảm 22,3% so với năm trước. Nếu tính cả 3.172,7 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 50,4 nghìn doanh nghiệp tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2022 là 4.763,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với năm trước.
    Bên cạnh đó, còn có 59,8 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 38,8% so với năm 2021, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2022 lên 208,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 30,3% so với năm 2021. Bình quân một tháng có 17,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
    Cũng trong tháng 12, có 3.776 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 5,7% so với tháng trước và tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2021; có 5.847 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 14,8% và giảm 35,4%; có 1.761 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 23,8% và giảm 6,2%.
    Tính chung cả năm 2022, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là 73,8 nghìn doanh nghiệp, tăng 34,3% so với năm 2021; gần 50,8 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 5,5%; 18,6 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 11,2%. Bình quân một tháng có 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.[3]
    Về xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp, kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2022 cho thấy: Có 32,6% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý III/2022; 33,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 33,7% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.
    Dự kiến quý I/2023, có 31,5% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý IV/2022; 37,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 31,2% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.
    Doanh nghiệp nộp văn bản Đề nghị sử dụng hóa đơn đến cơ quan thuế (Cục Thuế hoặc Chi cục Thuế) theo biểu mẫu. Trong 02 ngày làm việc từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan thuế trả kết quả cho doanh nghiệp. Trước khi bắt đầu sử dụng hóa đơn, doanh nghiệp cần thực hiện lập và gửi thông báo phát hành hoá đơn (kèm theo hoá đơn mẫu) đến cơ quan Thuế chậm nhất 02 ngày trước khi bắt đầu sử dụng hóa đơn hoặc nộp đơn đề nghị mua hóa đơn đến Cơ quan thuế. Cơ quan Thuế bán hóa đơn cho doanh nghiệp trong ngày làm việc nếu hồ sơ hợp lệ. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, số ngày thực hiện thủ tục này trên thực tế đã chiếm 10 ngày.
    Doanh nghiệp thực hiện khai trình việc sử dụng lao động lần đầu đến cơ quan quản lý lao động tỉnh/huyện, trong đó kê khai thông tin chi tiết của từng lao động: họ và tên, năm sinh, trình độ chuyên môn, loại hợp đồng lao động, vị trí việc làm, thời điểm bắt đầu làm việc,...
    Sau đó, Doanh nghiệp đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội, được cấp mã số đơn vị tham gia bảo hiểm để phục vụ công tác quản lý nội bộ của ngành bảo hiểm xã hội. Hầu hết các nội dung trong tờ khai nêu trên đều trùng lặp với các thông tin tại Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã kê khai với cơ quan đăng ký kinh doanh khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, ngoại trừ nội dung về “Phương thức đóng bảo hiểm xã hội”.
    Như vậy, để thực tế có thể đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, tổng thời gian thực hiện quy trình gia nhập thị trường, khởi sự kinh doanh hiện nay ở Việt Nam hiện nay là 08 thủ tục trong 16 ngày. Doanh nghiệp phải kê khai nhiều mẫu đơn với nội dung tương tự nhau gây gánh nặng chi phí gia nhập thị trường cho các chủ thể kinh doanh. Những yếu tố này, khiên cho đánh giá tại Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) 2020 của Ngân hàng Thế giới, chỉ số Khởi sự kinh doanh của Việt Nam trong năm 2019 xếp thứ 115/190 nền kinh tế, giảm 11 bậc so với năm 2018 (xếp 104/190).[4]
    1.3. Thực tiễn thi hành các biện pháp bảo đảm, xử lý vi phạm pháp luật về quyền gia nhập thị trường
    Thực tiễn xử lý vi phạm pháp luật về QGNTT có thể thấy số lượng lớn các vụ việc cũng bắt nguồn từ các chủ thể kinh doanh, việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý những hành vi vi phạm này nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh. Có thể đưa ra một số nhận xét sau:
    Một là, ý thức chấp hành pháp luật của một số doanh nghiệp chưa cao như trốn tránh việc công bố thông tin đăng ký doanh nghiệp; giả mạo nhân thân để thành lập doanh nghiệp, mua bán hóa đơn…vẫn còn tồn tại.
    Hai là, mức xử phạt vi phạm của doanh nghiệp còn thấp, theo điểm k Khoản 1, Khoản 2 Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tối đa không quá 2 tỷ đồng. Với mức xử phạt này chưa đủ tính răn đe, dẫn đến việc doanh nghiệp tái phạm nhiều lần, gây bức xúc trong xã hội.
    Ba là, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính hiện nay có ưu điểm là nhanh và kịp thời nhằm lập lại trật tự quản lý hành chính nhưng có mặt hạn chế rất lớn là thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch trong việc xác minh hành vi vi phạm, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra và mức xử phạt áp dụng đối với pháp nhân. Mặt khác, cũng vì xử lý theo thủ tục hành chính, nên pháp nhân với tư cách là đối tượng bị xử phạt ít có điều kiện hơn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình như: không nhận được sự trợ giúp của người bào chữa, không được quyền xét xử theo hai cấp với một cơ quan tài phán độc lập, khách quan và công bằng.
    2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền gia nhập thị trường ở Việt Nam 
    2.1. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền gia nhập thị trường
    Để pháp luật về QGNTT được thực hiện trên thực tế thì mọi người dân, cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp cần phải biết các quy định pháp luật, hiểu về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm thực thi QGNTT. Vì vậy các cơ quan, tổ chức phải thực hiện đồng bộ các biện pháp để tuyên truyền, phổ biến pháp luật về QGNTT như: Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về QGNTT thông qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình, các ấn phẩm khác như sách, tài liệu tập huấn; tổ chức các hội nghị nhằm thông tin tuyên truyền pháp luật; tổ chức tư vấn pháp luật, hỗ trợ pháp lý giúp cho người dân và doanh nghiệp biết, hiểu và áp dụng đúng quy định của pháp luật về QGNTT. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới các đối tượng là cán bộ, công chức nhà nước. Đây là đối tượng thực thi trách nhiệm của mình trong việc tạo điều kiện, bảo đảm cho chủ thể kinh doanh thực hiện được QGNTT. Nếu cán bộ, công chức biết, hiểu và áp dụng đúng các quy định của pháp luật sẽ giúp cho người dân và doanh nghiệp thực hiện được đầy đủ QGNTT, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, tránh được những rủi ro, thiệt hại cho Nhà nước và doanh nghiệp.
    2.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện pháp luật về quyền gia nhập thị trường
    Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong việc bảo đảm QGNTT có vai trò rất quan trọng, giúp chủ thể kinh doanh thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ QGNTT khi có hành vi xâm phạm. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế nhà nước và xã hội trong việc thực hiện pháp luật về QGNTT.
    Cơ quan đăng ký kinh doanh có vị trí rất quan trọng trong việc giải quyết thủ tục đăng ký kinh doanh, thay mặt cho nhà nước để triển khai thực thi những quy định của pháp luật. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này cần phải thực hiện việc ban hành quy chế ứng xử, tác phong làm việc cho các cán bộ phòng đăng ký kinh doanh.
    Ngoài ra, cần khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân sự thông qua cơ chế tuyển dụng, sử dụng người có trình độ, kinh nghiệm về nghiệp vụ và biết ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình giải quyết công việc nhằm bảo đảm tốt quyền lợi của các chủ thể kinh doanh; đồng thời chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ làm công tác đăng ký kinh doanh một cách thường xuyên.
    Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về đầu tư, kinh doanh còn hạn chế về kiến thức pháp luật, ngoại ngữ, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng làm gia tăng hoạt động giao lưu thương mại, đầu tư và du lịch và trong bối cách cách mạng công nghiệp 4.0 thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức không những am hiểu pháp luật, thông thạo kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có văn hóa ứng xử tốt nơi công sở, có ý thức tuân thủ tốt kỷ luật công vụ mà còn biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao năng suất, hiệu quả công việc thông qua tương tác với máy móc trong môi trường khoa học công nghệ hiện đại. Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý đầu tư, kinh doanh là cấp thiết và mang ý nghĩa quyết định đối với hiệu quả, chất lượng thực thi nhiệm vụ. Theo đó các Bộ quản lý trực tiếp như Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Công thương, Cục quản lý thị trường... phải sát sao trong việc chỉ đạo, hỗ trợ các cơ quan chuyên môn cũng như chính quyền địa phương trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
    Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cần tổ chức thường xuyên thông qua các hội nghị tập huấn, các hội thảo nhằm phổ biến những điểm mới của pháp luật và tập huấn quy trình nghiệp vụ trong công tác. Để công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức đạt hiệu quả cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, bố trí nguồn ngân sách cho các đơn vị thực thi nhiệm vụ. Các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chỉ có thể triển khai trên thực tế khi có kinh phí. Vì vậy Ủy ban nhân dân các cấp cần chú trọng trong việc hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác này.
    2.3. Xây dựng hệ thống giám sát thông tin để kiểm soát việc thực thi pháp luật về quyền gia nhập thị trường
    Thực tế đã cho thấy hoạt động giám sát thực thi pháp luật về quyền gia nhập thị trường ở nước ta còn yếu, nguyên nhân sâu xa là chúng ta chưa xây dựng được cơ chế phù hợp, chưa phát huy được vai trò giám sát của các chủ thể khác trong xã hội.
    Do vậy, cần thiết phải có những quy định, cơ sở pháp lý rõ ràng để thiết lập nên sự kết hợp của nhiều bên trong việc giám sát thực thi pháp luật về gia nhập thị trường và xây dựng kênh thông tin phản hồi để tiếp nhận kết quả từ quá trình giám sát đó. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, việc quản lý thực thi pháp luật về QGNTT nhất thiết phải có những kênh giám sát như sau:
    - Giám sát của các cơ quan Nhà nước: Trong bất kì một giai đoạn nào, các cơ quan nhà nước luôn có vai trò giám sát trực tiếp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua tập trung kiểm tra và áp dụng các biện pháp để hạn chế, ngăn ngừa một cách có hiệu quả các tác động tiêu cực lớn hoặc nguy hại có thể xảy ra đối với xã hội, Nhà nước vừa là chủ thể trung tâm tạo điều kiện và thực hiện giám sát quá trình các chủ thể khác tham gia giám sát các doanh nghiệp.
    - Giám sát của doanh nghiệp: Đây là hoạt động giám sát của chính chủ thể phải thực hiện thủ tục hành chính về điều kiện đầu tư kinh doanh. Đây là hình thức giám sát hiệu quả vì các chủ thể này rất nhiều thông tin, am hiểu thực chất hoạt động kinh doanh và phản hồi nhằm bảo vệ lợi ích của chính mình.
    - Giám sát của các hiệp hội, cơ quan báo chí và truyền thông: Hiệp hội, cơ quan báo chí và truyền thông được xem là kênh giám sát có sức ảnh hưởng lớn đến hệ thống hành pháp. Bởi những thông tin liên quan tới thủ tục gia nhập thị trường làm khó cho doanh nghiệp sẽ nhanh chóng được đưa tới công chúng, các nhà quản lý… vì thế nó tác động trực tiếp tới ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước. Thông qua tác động tuyên truyền và định hướng công chúng, báo chí sẽ tạo nên một áp lực giám sát đối với cơ quan nhà nước, bắt buộc cơ quan nhà nước phải hành động hợp lý, đúng pháp luật, đúng đạo lý, tôn trọng lợi ích của toàn xã hội mỗi khi ban hành, sửa đổi các điều kiện kinh doanh. Thực tế cho thấy nhiều quy định về điều kiện kinh doanh được sửa đổi là do áp lực thông tin này./.
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Luật Doanh nghiệp 2020.
    2. Luật Đầu tư 2020.
    3. Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp.
    4. Nghị định số 31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư 2014.
    5. Nguyễn Như Chính, Pháp luật về quyền gia nhập thị trường - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2021.
    6. https://baodautu.vn/giay-phep-con-tiep-tuc-duoc-cai-cam-d96761.html
    7. https://thongcaobaochi.net/tai-chinh/208-nghin-doanh-nghiep-gia-nhap-thi-truong-trong-nam-2022/
    8.https://www.doingbusiness.org/content/dam/doingBusiness/country/v/vietnam/VNM.pdf


    [1] https://baodautu.vn/giay-phep-con-tiep-tuc-duoc-cai-cam-d96761.html
    [2] Luận án Tiến sĩ Luật học “Pháp luật về quyền gia nhập thị trường - Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Như Chính, Đại học Luật Hà Nội năm 2021
    [3] https://thongcaobaochi.net/tai-chinh/208-nghin-doanh-nghiep-gia-nhap-thi-truong-trong-nam-2022/
    [4]https://www.doingbusiness.org/content/dam/doingBusiness/country/v/vietnam/VNM.pdf

     

    Hỏi đáp pháp luật

    Hình ảnh hoạt động

    • 1
    • 1
    • 1
    • 1
    • 1

    Liên kết website

    Video

    Trường Trung cấp Luật Đồng Hới- Quảng Bình