Th.s Nguyễn Thị Thảo - Khoa GDCTTC-VH
1. Hoàn cảnh quê hương, gia đình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969) lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên - huyện Nam Đàn - tỉnh Nghệ An nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân bị thất bại, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. Từ năm 1912 - 1917, với tên gọi Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao động.
Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941 Người về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận Việt Minh, gấp rút xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam độc lập Ngay sau đó, thực dân Pháp gây chiến tranh, âm mưu xâm chiếm Việt Nam một lần nữa. Trước nạn ngoại xâm, Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi to lớn, kết thúc vẻ vang bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ năm 1954, Người cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 2/9/1969, Người mất tại Hà Nội. Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc lịch sử, căn dặn những việc nhân dân Việt Nam phải làm để xây dựng đất nước sau chiến tranh. Thực hiện Di chúc của Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược. Mùa xuân năm 1975, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thực hiện mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Lối sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Người luôn luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị. Năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”.
Trong số những di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc Việt Nam, có một di sản đặc biệt quý giá đólà lối sống giản dị hằng ngày - là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và thanh bạch và luôn luôn thương dân, gần dân.
Có thể hiểu lối sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội.
Với một sự nghiệp chính trị lay trời chuyển đất, thế mà đời sống của Người lại vô cùng giản dị và khiêm tốn. Thật vậy, trước kia dù là anh Văn Ba đang làm phụ bếp trên tàu Đô đốc La Tusơ Tơrêvin, là Nguyễn Ái Quốc trong những năm tháng đầy khó khăn ở thủ đô Paris của nước Pháp, hay sau này là một vị Chủ tịch nước sống kham khổ nơi chiến khu trong những năm kháng chiến, hay là một vị nguyên thủ quốc gia sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch ở Thủ đô Hà Nội, thì cũng vẫn là một Hồ Chí Minh yêu lao động, hết sức giản dị và tiết kiệm.
Lối sống giản dị thể hiện ngay trong bữa cơm, đồ dùng, nơi ở... Hẳn đã là người Việt Nam, không ai là không biết hay nghe kể về cuộc sống giản dị của Bác.
Khi ở chiến khu, nơi chở che cho Bác suốt những năm dài kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc, là mái lán đơn sơ của cây rừng Việt Nam. Vượt qua những gian nan thiếu thốn, ở nơi đâu Bác cũng tạo nên một không khí bình thản, tự tại, một cuộc sống đầm ấm tình đồng chí. Lán của Bác ở, diện tích bằng khoảng hai chiếc chiếu, được làm bằng vật liệu sẵn có chung quanh như tre, luồng hoặc nứa, đủ cho Bác kê chiếc bàn nhỏ làm việc. Vật dụng trong lán chỉ có một chiếc ghế bằng gỗ tạp đủ để cái máy chữ, vài cuốn sách, tài liệu cần thiết, những thứ đồ dùng vặt như bút giấy, hòn đá cuội luyện gân tay... lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như các đồng chí khác phải ăn cháo bẹ, rau măng ròng rã.
Khi đi công tác, ngoài những đồ đạc cần thiết mang theo, Người cho làm món thịt rang mặn Việt Minh theo công thức một thịt - một muối - một ớt. Như vậy đi tới đâu chỉ cần thổi cơm, tìm thêm rau xanh nấu canh, rồi bỏ “thịt” của nhà ra ăn là xong bữa. Cách nấu nướng như vậy rất tiện, cần nghỉ chỗ nào cũng được, khỏi phải vất vả mua bán ở dọc đường, lại tiết kiệm.Di chuyển đến bất kỳ địa điểm nào, Bác cũng trồng rau, nuôi gà để cải thiện cuộc sống kham khổ.
Kháng chiến thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ở trong ngôi nhà Toàn quyền cũ vì tự nhủ mình là Chủ tịch một nước nghèo, chưa có quyền hưởng thụ. Bác quyết định chọn cho mình ngôi nhà của một người thợ điện, nơi mà mùa hè thì nhiệt độ cao hơn hẳn chung quanh, thiếu ánh sáng. Năm 1958, Trung ương quyết định xây nhà cho Bác, nhưng Bác đề nghị chỉ nên làm một căn nhà nho nhỏ theo kiểu nhà đồng bào dân tộc ở Việt Bắc, giống như ngôi nhà Người đã từng ở trong những năm kháng chiến.
Khác hẳn với công trình kiến trúc đồ sộ, bề thế như Phủ Chủ tịch và các ngôi nhà xây dựng bằng những nguyên liệu bền vững như sắt, thép, xi-măng,... trong khu vực, ngôi nhà sàn của Bác được xây dựng bằng gỗ dổi bình thường, hai tầng, chung quanh có mành che, tầng dưới để thoáng. Tầng trên chỉ có những đồ dùng rất quen thuộc: chiếc giường đơn trải chiếu cói, cái tủ nhỏ, bộ bàn ghế, trên bàn để đèn, lọ hoa, chiếc máy thu thanh, cái quạt nan, mấy quyển sách. Trước nhà là một vườn hoa nhỏ, trồng nhiều loại hoa thơm. Phía ngoài là hàng rào dâm bụt gợi nhớ hình ảnh quê hương Nghệ An, nơi Bác sinh ra và lớn lên. Trong hồ nước trước nhà sàn, Bác nuôi cá vừa cải tạo môi trường sống trong lành, cải thiện bữa ăn hằng ngày, vừa là một cách thư giãn thú vị sau giờ làm việc. Nhà sàn của Bác hòa hợp với thiên nhiên là thế đấy! Nó tạo ra nét bình dị gần gũi với mọi người dân Việt Nam ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Không chỉ nơi ở đơn sơ, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày của Bác cũng thật giản dị. Ðôi dép cao-su, Bác dùng đến mòn vẹt phải đóng đinh bao lần, đã theo Bác trên những nẻo đường Pác Pó, Ðiện Biên, trở về Thủ đô Hà Nội rồi lại theo Người đi thăm các nước anh em. Ðôi dép đã góp phần tạo nên huyền thoại về một vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới như lời báo chí Ấn Ðộ đã từng ca ngợi.
Đôi dép của Bác “ra đời’’ vào năm 1947, được ‘’chế tạo’’ từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với các cán bộ đi cùng:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép...
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin’’ Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được’’.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì mọi người trong tổ cảnh vệ lập mẹo dấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới...
Máy bay hạ cánh xuống Niu-đê-li, Bác tìm dép. Mọi người thưa:
- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác....
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn, nhân dân ta còn khó khăn, Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự - Bác ôn tồn nói.
Vậy là các anh chiến sĩ phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi...
Trong suốt thời gian Bác ở Ấn Độ, nhiều chính khách, nhà báo, nhà quay phim... rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm tổ cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên” ấy, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Các chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác hơn. Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi...
Nghe Bác nói, mọi người dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa...
- Thưa Bác, cháu, cháu sửa được ạ...
Thấy vậy, các chiến sĩ cảnh vệ trong đoàn chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh sửa mấy lần rồi...Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra:
- Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến...
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ.Anh chiến sĩ, lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Cháu, để cháu sửa dép...Mọi người dãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ...
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ đúng có một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì nó còn ‘’thọ’’ lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...
Rồi bộ quần áo lụa nâu, bộ quần áo ka-ki, đôi tất vá đến hai, ba lần. Chỉ khi đi ra nước ngoài Bác mới mặc áo sơ-mi và mới đồng ý may bộ quần áo dạ đen. Thật đúng như nhà thơ Tố Hữu viết về Bác:
“Nhà gác đơn sơ, một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chăn gối
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn”
(Theo chân Bác).
Trong những ngày thường Bác dùng cơm ở Bắc Bộ phủ, Bác cùng ăn cơm gạo đỏ, muối vừng với anh em văn phòng, bảo vệ, lái xe... mà không có sự ưu tiên nào khác. Nhờ có đức tính giản dị của Bác mà khi ngồi ăn với mọi người, Bác không làm ai phải giữ kẽ nhiều quá mà trái lại, không khí chung lúc nào cũng thân mật, cũng vui vẻ, tạo cho bữa ăn một vẻ ấm áp như gia đình
Bữa ăn thường ngày của Bác trong Khu Phủ Chủ tịch cũng không quá ba món: một bát canh, một món xào hoặc thịt luộc, cá quả hoặc cá bống kho gừng và không thể thiếu hương vị quê nhà là cà dầm tương hoặc đường ớt. Quý trọng công sức của nhân dân, trong bữa ăn, Bác không bao giờ để thừa, lãng phí. Ðặc biệt, sau bữa ăn, Bác thường tự mình sắp xếp gọn gàng bát đĩa trên bàn để các đồng chí phục vụ đỡ vất vả khi thu dọn và dùng cho bữa sau. Điều đó, chứng tỏ Bác rất quý trọng kết quả sản xuất của nhân dân và tôn trọng những người phục vụ.
Ðồng thời, Bác cũng nhắc nhở mọi người rằng, nước ta còn nghèo, mà cái nghèo thì không phải dễ dàng nhanh chóng khắc phục, còn phải chịu đựng nó lâu dài, vậy thì sống giản dị, tiết kiệm là thói quen tốt, cần rèn luyện thường xuyên. Sự giản dị, phong thái ung dung ấy của Bác bắt nguồn từ một thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng. Nó kết hợp nhuần nhị những nét cao đẹp của tính cách dân tộc với đạo đức cộng sản. Nó có sức thu hút mạnh mẽ tình cảm mọi người và qua đó Bác càng trở nên vĩ đại.
Khi đi thăm các địa phương, Bác bảo anh em phục vụ chuẩn bị cơm mang theo, hễ lúc nào thuận tiện thì dừng lại ăn cơm. Với Bác, thăm các địa phương, đơn vị là để nắm tình hình thực tế và góp ý, nhắc nhở về các công việc, chứ không phải xuống dự tiệc tùng, gây tốn kém. Có tỉnh nọ, mặc dù đã được báo trước là Bác có mang cơm theo, nhưng vẫn sắm sửa cỗ bàn thịnh soạn. Khi được mời, Bác kiên quyết không ăn mà còn phê bình rất nghiêm khắc. Có thể dẫn ra nhiều câu chuyện về cách ăn uống tiết kiệm của Bác, thậm chí vào dịp liên hoan chào mừng Ngày thành lập Ðảng cũng chỉ có bát cơm, món xào, tô canh và đĩa cá. Bác thường nói khi mời cơm khách: “Chủ yếu là thật lòng với nhau”. Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc năm 1965, Bác cương quyết đề nghị nhà bếp cho ăn cơm độn ngô như tất cả những người dân khác.
Trong tình hình kinh tế, chính trị của ta hồi đó, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh hoạt bình thường như cán bộ và nhân dân chứng tỏ Bác hiểu rất rõ, rất sát tình hình đời sống vật chất của nhân dân và cán bộ, đồng thời thể hiện tấm lòng chân thành của Bác, tấm lòng của một lãnh tụ muốn cùng chịu gian khổ với dân.Bác thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Nước ta còn nghèo, dân ta còn khổ, chúng ta không thể sống khác đồng bào”! Sau hòa bình, Bác đã 700 lần về thăm và làm việc ở các cơ sở. Bác về thăm và động viên bà con nông dân, ngư dân, diêm dân ở nhiều hợp tác xã nông nghiệp, diêm nghiệp, xắn quần lội ruộng, cùng tát nước chống hạn, đánh cá, làm muối với các xã viên.
Không chỉ nói, Bác hành động cụ thể. Bác đến với các chiến sỹ trên mặt trận, cùng chiến sỹ hành quân; Bác đi thăm chỗ ở, nhà bếp, nhà vệ sinh của các gia đình, tập thể; Bác trực tiếp xuống ruộng làm việc, hướng dẫn bà con về sâu bệnh, về thủy lợi; Bác đến thăm các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học; Bác viết thư thăm hỏi người già, trẻ em… Bác luôn chủ động tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, từ đó đi vào lòng dân bằng trái tim nhân hậu.
Đi đến đâu, Bác cũng bình dị, không thích hình thức đón tiếp linh đình, không thích “tiền hô hậu ủng”, xe pháo rầm rộ, mà hòa nhập ngay với quần chúng, đối thoại trực tiếp và thân tình với nhân dân, để nắm chắc tình hình thực tế và đồng cảm với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
Thật vậy, Bác Hồ từng bộc bạch với các nhà báo: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để nuôi cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Dù là lãnh tụ tối cao nhưng khi tiếp xúc với nhân dân, cử chỉ, lời nói của Người vẫn hết sức mộc mạc, dân dã. Ngay cả khi đứng trên lễ đài đọc Bản tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, người cũng dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Hiếm có vị lãnh tụ nào lại có nếp nghĩ, cách nói giản dị như thế!
Có thể thấy, giản dị, thanh bạch là đức tính tự nhiên của Bác. Điều đó đã được thể hiện sinh động qua từng cử chỉ, lời nói và việc làm cụ thể của người, và có sức thuyết phục to lớn mà không một bài giảng về đạo đức nào có tác dụng giáo dục sâu sắc bằng.
Chưa bao giờ ta thấy Bác nặng lời chỉ trích một ai. Ai có lỗi thì Bác phê bình, nhắc nhở. Ai có công, Bác khen ngợi, trọng thưởng. Với người lớn tuổi, Bác lễ phép, kính trọng. Với trẻ em, nhi đồng, Bác mến yêu, giáo dục. Với anh em đồng chí, Bác khiêm tốn, tôn trọng và lắng nghe. Trong công việc, lúc nào Bác cũng kiên trì, quyết liệt. Bởi thế mà, nhân cách và đức độ của Người đã trở thành niềm cảm phục, chiếm lĩnh hàng triệu trái tim người Việt Nam từ trước đến giờ.
Không những người Việt Nam ta dành cho Bác những lời khen ngợi và tình cảm mến yêu to lớn mà cả anh em đồng chí quốc tế cũng kinh ngạc và cảm phục về cuộc đời và lối sống của Người.
Năm 1971- sau khi Bác Hồ đã mất, một nhà báo, nhà văn người Mỹ, đã viết: “Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găng đi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. “Có lẽ hơn bất kỳ một người nào khác của thế kỷ này, đối với dân tộc của ông và đối với cả thế giới, ông là hiện thân của một cuộc cách mạng. Thế nhưng đối với hầu hết nông dân Việt Nam, ông là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng, đấu tranh, hy sinh và thắng lợi của họ. Ông là một người Việt Nam lịch sự, khiêm tốn, nói năng hòa nhã, không màng địa vị, luôn luôn mặc quần áo đơn giản nhất - cách ăn mặc của ông không khác mấy người nông dân nghèo nhất, một phong cách mà phương Tây đã chế giễu ông trong nhiều năm, cười ông thiếu nghi thức quyền lực, không có đồng phục, không theo thời trang. Cho đến một ngày họ mới tỉnh ngộ và nhận thấy chính cái tính giản dị ấy, cái sùng bái sự giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của ông.”
Như vậy, nếp sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là tiết kiệm mà mang ý nghĩa rất cao đẹp. Người tiết kiệm nhưng không ki bo, kiệt xỉ, không lãng phí, phô trương
Từ cách sống tiết kiệm, thanh đạm của Bác, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật... Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Đó là đời sống thật sự văn minh mà Bác Hồ nêu gương sáng trong thế giới ngày nay”.
3. Học tập và làm theo lối sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh của đảng viên, cán bộ, giáo viên trường Trung cấp Luật Đồng Hới.
Từ sự giản dị, thanh bạch của Bác, chúng ta nghĩ nhiều về nếp sống hiện nay. Lịch sử đất nước đã sang trang, đất nước và cuộc sống của nhân dân đã có nhiều đổi thay kỳ diệu. Nhưng đất nước ta vẫn đang còn nghèo, bình quân thu nhập của người dân vẫn còn thấp và thua nhiều nước trên thế giới và khu vực.
Vì thế, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trước tiên chính là học tập lối sống giản dị, thanh bạch, tiết kiệm của Bác. Điều này vừa dễ lại vừa khó. Dễ bởi đó không phải là những gì quá cao siêu vì cách sống của Bác rất bình thường, đơn giản nếu quyết tâm thì ai cũng làm được.
Khó bởi phải thật sự có một tấm lòng thật trong sáng thì mỗi người mới có thể vượt qua những cám dỗ của quyền lực, danh vọng… luôn diễn ra trong cuộc sống thường ngày, không có chí hướng, không có nghị lực, không có lòng yêu thương con người thật sự thì không thể làm theo Bác Hồ được.
Hiểu rõ tấm gương đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu nói chung và lối sống giản dị của Người nói riêng.Đội ngũ đảng viên, cán bộ và giáo viên trường Trung cấp luật Đồng Hới luôn là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện có phẩm chất đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng, vững vàng trong công tác chuyên môn, xây dựng phong cách làm việc khoa học cùng phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Trong môi trường giáo dục, người thầy là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục, sản phẩm của dạy học là tương lai của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, do đó tấm gương nhà giáo có tác dụng giáo dục học sinh rất lớn. Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu; một tấm gương sáng của người thầy sẽ có cả một thế hệ noi theo, ngược lại một hành vi xấu của người thầy có thể làm tổn thương, làm mất niềm tin cả một lớp người. Người thường dặn dò, các thầy, cô giáo không được đánh mất phẩm chất của mình, dù hoàn cảnh nào cũng phải là tấm gương cho học sinh noi theo, tránh thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống thực tế, lười biếng trong học tập và nâng cao trình độ; thái độ kèn cựa địa vị, xem nhẹ công việc của mình, thiếu tinh thần xây dựng tập thể.
Bản thân mỗi người đảng viên, cán bộ, giáo viên Nhà trường luôn luôn xây dựng cho mình một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, không ham danh lợi, chức quyền là tấm gương sáng cho các em học sinh noi theo.
Là người giáo viên phải có đức và có tài. Đức của nhà giáo là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm đối với nghề, với học sinh; còn tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn… Mỗi thầy cô giáo phải luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Vấn đề này càng có ý nghĩa lớn khi liên hệ, vận dụng vào tình hình hiện nay khi nhân loại đã có những bước tiến nhanh chóng về khoa học - công nghệ; khi Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong thời đại như vậy, dừng lại, thậm chí là tiến chậm là bị tụt hậu, là bị thụt lùi so với dòng chảy của tri thức nhân loại.
Xã hội ngày nay đã phát triển hơn nhiều so với thời kỳ đất nước trong chiến tranh và bao cấp, mức sống chung của người dân đã được nâng lên rõ rệt. Nên dù không cần phải đi dép cao-su, mang cơm nắm khi đi công tác như Bác Hồ, thì mỗi cán bộ, đảng viên nói chung cũng không nên lãng phí, xa hoa, tiệc tùng, tiêu hoang khi thi hành nhiệm vụ, gây phản cảm cho dư luận và tạo dựng hình ảnh xấu trong nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, giáo viên của nhà Trường luôn không ngừng học tập, tu dưỡng và rèn luyện một cách tự giác thường xuyên những đức tính quý báu ấy tích cực điều chỉnh từ cách sống tiết kiệm và giản dị hằng ngàyđể việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh đạt kết quả tốt nhất./.
Ý kiến bạn đọc