ThS. Lê Thị Hiền - Khoa Đào tạo cơ sở
1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về công ty hợp danh hiện nay
1.1. Kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về công ty hợp danh
Việc thừa nhận công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp và có những quy định cụ thể dành cho loại hình công ty này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đến nay, kinh tế tư nhân đã được thừa nhận vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và được xác định là một động lực để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc, điều chỉnh phạm vi hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước. Khối Doanh nghiệp tư nhân đóng góp 43.22% GDP và 39% vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế.
[1] Tuy nhiên, sự đóng góp của công ty hợp danh trong phát triển toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân nói chung còn rất hạn chế. Số lượng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân. Trong thời gian gần đây số lượng công ty hợp danh có tăng dần đều qua các năm, song số lượng ít ỏi các công ty hợp danh đang hoạt động cho chúng ta thấy, công ty hợp danh không được các nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn ở Việt Nam mặc dù loại hình doanh nghiệp này được pháp luật thừa nhận 20 năm. Hiện nay, các công ty hợp danh chủ yếu hoạt động trong một số lĩnh vực đặc thù như pháp luật và kiểm toán.
Bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp trong năm 2023 tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam năm 2023. Quý I/2023 tuy có sự sụt giảm về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới (33.905 doanh nghiệp, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2022) nhưng vẫn gấp 1,02 lần so với mức bình quân theo quý giai đoạn 2017-2022 (33.191 doanh nghiệp). Trong các quý tiếp theo, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho cộng đồng doanh nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới có đà phục hồi ấn tượng, luôn ở mức trên 40 nghìn doanh nghiệp, là mức cao nhất theo quý từ trước tới nay. Quý IV/2023 có 42.952 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2022, gấp 1,3 lần so với mức bình quân theo quý giai đoạn 2017-2022. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2023 (159.294 doanh nghiệp, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2022) lần đầu tiên chạm mức kỷ lục, gần 160 nghìn doanh nghiệp. Con số này thực sự ấn tượng khi gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023.
[2]
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong công tác đảm bảo sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt từ thời kỳ đổi mới của đất nước cho đến nay, chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của loại hình công ty hợp danh tới sự phát triển kinh tế bền vững. Do đó, để đảm bảo tạo lập một môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, việc thực hiện pháp luật về doanh nghiệp nói chung và về công ty hợp danh nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhìn chung, những thành công của việc thực hiện pháp luật về công ty hợp danh cụ thể như sau:
Thứ nhất, chất lượng văn bản luật về công ty hợp danh đã được nâng cao rõ ràng, từng bước đáp ứng yêu cầu tạo môi trường thuận lợi để phát triển loại hình công ty hợp danh.
Ngày 17/6/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021. Vì vậy, với Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm giải quyết các bất ổn trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Luật Doanh nghiệp năm 2020 được đánh giá sẽ nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Với tư cách là loại hình doanh nghiệp có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời trên thế giới, mô hình công ty hợp danh được các nhà pháp quy định trong các phiên bản Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014, 2020. Tuy nhiên, thực tiễn được tìm thấy, kể từ khi được quy định trong Luật Doanh nghiệp qua các thời kỳ thì mô hình này không được lựa chọn là nhà hàng đầu để khởi nghiệp kinh doanh. Theo số liệu của Cục quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch đầu tư (2017), số lượng nhà tư vấn đăng ký thành lập công ty hợp nhất sử dụng tỷ lệ rất thấp (0,03%) trên tổng số loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Điều này xuất bản pháp lý về công ty hợp pháp vẫn tồn tại một số chế độ hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà tư nhân và tạo ra sự tương thích với quốc tế.
Hệ thống văn bản pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam đã được xây dựng và ban hành tương đối hoàn thiện phần nào đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Những quy định của pháp luật về công ty hợp danh ngày càng tiến bộ, bao quát và đầy đủ hơn. Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời đã có sự kế thừa nhiều quy định từ các quy định của Luật Doanh nghiệp trước đây, đồng thời bổ sung nhiều quy định mới có tính chất chi tiết, rõ ràng hơn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội.
Thứ hai, môi trường kinh doanh càng ngày càng thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp.
Trong thời gian gần đây, công tác cải cách thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng đã đạt được một số kết quả khả quan. Trong năm 2023 nhiều bộ, ngành đã cắt giảm mạnh các thủ tục hành chính, nhất là các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong đó tập trung vào các thủ tục về thuế, liên quan hóa đơn VAT, bảo hiểm xã hội và thông quan... Điều này đã đem lại lợi ích rất lớn, qua đó doanh nghiệp bên cạnh rút ngắn được thời gian, chi phí, thì cũng đã mở ra nhiều cơ hội để nâng cao hiệu quả trong hoạt động.
Thứ ba, sự quan tâm của nhà đầu tư tới loại hình công ty hợp danh có xu hướng nâng lên trong những năm gần đây. Những năm gần đây có thể thấy số lượng thành lập công ty hợp danh đang ngày càng tăng lên. Từ đó, cho thấy loại hình công ty hợp danh đang dần dần được các nhà đầu tư quan tâm.
1.2. Đánh giá những hạn chế của việc thực hiện pháp luật về công ty hợp danh và nguyên nhân của những hạn chế
- Đánh giá những hạn chế của việc thực hiện pháp luật về công ty hợp danh
Thực tế cho thấy, việc thực hiện pháp luật về công ty hợp danh còn nhiều hạn chế, chưa đạt được những kỳ vọng trong xứng với vai trò của loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Một trong những nguyên nhân khiến công ty hợp danh chiếm số lượng rất ít trong số các doanh nghiệp ở Việt Nam có thể kể đến do công tác thực thi pháp luật. Từ kết quả điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận thấy rằng điểm yếu của môi trường kinh doanh tại Việt Nam so với các quốc gia cạnh tranh là tham nhũng, chi phí không chính thức, chất lượng dịch vụ hành chính công và chất lượng của kết cấu hạ tầng. Không chỉ chi phí chính thức có thể lượng hóa được mà cả các chi phí không chính thức, không tính toán hết được đang đè nặng lên vai các doanh nghiệp, cản trở sự phát triển của cả nền kinh tế, dù đã có những nỗ lực lớn từ Chính phủ với thông điệp Chính phủ kiến tạo. Bên cạnh đó, sự khắt khe trong chế độ trách nhiệm buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng trước khi có quyết định tham gia công ty. Hơn nữa, điều kiện để trở thành thành viên hợp danh đối với những công ty kinh doanh những ngành nghề có tính chất đặc thù, đòi hỏi trách nhiệm cao của người hành nghề như y tế, tư vấn pháp lý, kiểm toán... là phải có chứng chỉ hành nghề. Hiện nay, các công ty hợp danh chủ yếu hoạt động trong một số lĩnh vực như pháp luật, kiểm toán, vận tải công nghệ: như mua bán thiết bị phần mềm, thiết bị nghiên cứu khoa học; nghiên cứu tư vấn phát triển công nghệ, thương mại; sản xuất, mua bán sản phẩm nhựa, hàng hóa là nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, mua bán sản phẩm sinh học, hóa chất như thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật… tuy nhiên phổ biến nhất là hai lĩnh vực tư vấn luật và kiểm toán. Việc tìm được chủ thể vừa thân thiết, vừa cùng có chuyên môn, chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, lại vừa đồng lòng san sẻ rủi ro trên thực tế không hề đơn giản. Ngoài ra, qua thực tiễn thực hiện vẫn còn bất cập về hạn chế quyền đối với thành viên hợp danh.
Nếu cho phép thành viên hợp danh của công ty hợp danh đồng thời là chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác (khi được các thành viên hợp danh còn lại đồng ý) thì bất cập sẽ nảy sinh trong trường hợp tất cả các doanh nghiệp mà người này tham gia (với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh) đều bị phá sản mà doanh nghiệp không có đủ tài sản để trang trải mọi khoản nợ của mình sẽ gây ra tranh chấp trong việc giải quyết tài sản vì đây là hai vụ phá sản độc lập. Khoản 1 Điều 180 Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã quy định theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận của thành viên hợp danh nhưng rõ ràng sự bất cập lại tồn tại từ chính quy định này.
Mặc dù có những công ty hợp danh đang hoạt động rất hiệu quả với mô hình có thành viên góp vốn hoặc chỉ có thành viên hợp danh, song số lượng ít các công ty hợp danh đang hoạt động cho chúng ta thấy, công ty hợp danh không được các nhà đầu tư ưu tiên lựa chọn ở Việt Nam. Rõ ràng, với những ưu thế của mình, công ty hợp danh đã rất phát triển ở các nước, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại.
- Nguyên nhân của những hạn chế
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như tâm lý e dè của nhà đầu tư trước những cái mới, hay là mô hình công ty kén chọn lĩnh vực kinh doanh, hay những nguyên nhân tự thân của loại hình công ty đối nhân, thì nguyên nhân cơ bản vẫn là sự bất cập của pháp luật hiện hành. Việc phân tích làm rõ ràng các nguyên nhân sẽ giúp chúng ta tìm ra giải pháp tốt để công ty phát huy được vai trò và vị thế của mình trong nền kinh tế.
Việc liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty dẫn đến nhiều rủi ro cho thành viên hợp danh hơn so với việc làm thành viên của công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đây là nguyên nhân tự thân của loại hình công ty mang bản chất đối nhân. Sự khắt khe trong chế độ trách nhiệm buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc tính toán kỹ lưỡng trước khi có quyết định tham gia công ty.
Hơn nữa, điều kiện để trở thành thành viên hợp danh đối với những công ty kinh doanh những ngành nghề có tính chất đặc thù, đòi hỏi trách nhiệm cao của người hành nghề như y tế, tư vấn pháp lý, kiểm toán… là phải có chứng chỉ hành nghề. Việc tìm được chủ thể vừa thân thiết, vừa cùng có chuyên môn, chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật, lại vừa đồng lòng san sẻ rủi ro trên thực tế không hề đơn giản.
Những bất cập về môi trường pháp lý đã khiến cho công ty hợp danh bị thực tiễn từ chối. Không thể phủ nhận vai trò của luật doanh nghiệp trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển, ngày càng tạo điều kiện thông thoáng hơn về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp phát huy hết khả năng trong môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định bất hợp lý của pháp luật khiến cho loại hình này chưa được nhân rộng trên thị trường.
Đặc biệt là chính sách thuế đối với công ty và thành viên công ty. Xét về mặt thực tiễn kinh doanh hiện nay, rõ ràng chúng ta thấy khoản thu nhập thuộc đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân đã phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp do công ty mang tư cách pháp nhân nhưng thành viên không được hưởng quy chế dành cho thành viên trong tổ chức có tư cách pháp nhân. Sự khó khăn này khiến cho các thành viên hợp danh buộc phải cân nhắc lại loại hình công ty và địa vị pháp lý của mình trong công ty để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao nhất.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về công ty hợp danh
2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh
Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về công ty hợp danh cần tuân theo các quy luật của thị trường phù hợp với truyền thống văn hóa kinh doanh, phù hợp với bản chất con người và xã hội Việt Nam. Cụ thể, việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao tính khả thi trên thực tế cần phù hợp với cơ sở chính trị, cơ sở kinh tế - xã hội.
- Về cơ sở chính trị: Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã thật sự quan tâm đến phát triển thể chế hóa nền thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sao cho đồng bộ và hiện đại, đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế nước nhà trong thời kỳ mới, là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô.
- Về cơ sở kinh tế - xã hội: Cơ sở kinh tế xã hội quyết định sự ra đời và tồn tại của công ty hợp danh và pháp luật về công ty hợp danh, đồng thời những chế định pháp luật về công ty hợp danh lại góp phần định hướng cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh phải căn cứ vào các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam và phù hợp với truyền thống văn hóa kinh doanh của người Việt.
Việc hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh nhằm khắc phục những bất cập của hệ thống pháp luật gây khó khăn cho việc áp dụng các quy định trong thực tiễn, hướng tới việc tạo lập một môi trường kinh doanh thông thoáng đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững và ổn định. Sau đây, đề án xin đưa ra một số phương hướng hoàn thiện như sau:
Một là, hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật về thị trường ở Việt Nam.
Pháp luật về công ty hợp danh là một phần của thị trường pháp luật Việt Nam. Việc điều chỉnh một quan hệ pháp luật phát sinh có thể là sự kết hợp của nhiều đạo luật với nhau. Chính vì thế, việc hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp là chưa đủ, cần phải được tiến hành một cách đồng bộ cùng với các chế định khác của pháp luật về thị trường để đảm bảo sự tương thích giữa chúng. Hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh phải được chú ý trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật làm cho các văn bản pháp luật có liên quan đến quá trình tổ chức và vận hành công ty hợp danh trở thành một chỉnh thể thống nhất, hợp lý, logic và có hiệu quả bởi các vấn đề pháp lý về công ty hợp danh không chỉ thuộc phạm vi điều chỉnh của công ty hợp danh mà còn liên quan đến nhiều văn bản pháp luật khác: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, các văn bản pháp luật chuyên ngành và văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản trên.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh với mục tiêu góp phần xây dựng môi trường pháp lý kinh doanh thuận lợi.
Việc hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh sẽ tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, thuận lợi, góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư, thu hút các nguồn vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Pháp luật về công ty hợp danh khuyến khích, bảo hộ các hoạt động đầu tư, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào quá trình tổ chức hoạt động đầu tư của nhà đầu tư.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh góp phần bảo đảm tính hợp lý và tính khả thi của hệ thống pháp luật về thị trường tiết kiệm chi phí tổ chức và vận hành công ty.
Pháp luật về công ty hợp danh là một bộ phận của pháp luật về chủ thể kinh doanh, là bộ phận cấu thành pháp luật kinh doanh, là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng phát triển hoạt động kinh doanh. Các quy định của pháp luật về công ty hợp danh chỉ được coi là đúng đắn và có hiệu quả khi nó mang lại những lợi ích thiết thực cho các nhà đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá tính cần thiết và hiệu quả của pháp luật về công ty hợp danh là sự hạn chế chi phí để thực hiện pháp luật. Các quy định pháp luật không phù hợp ở các mức độ khác nhau sẽ tạo thêm rào cản đối với quyền tự do kinh doanh và làm tăng chi phí tổ chức vận hành công ty. Việc hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh cần tính đến việc giảm chi phí khi công ty gia nhập thị trường và quản trị nội bộ. Theo đó, thủ tục để công ty hợp danh gia nhập thị trường cần được quy định đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tiết kiệm ở mức thấp nhất cả về thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư. Các quy định về quản trị nội bộ công ty cho phép phát huy tính năng động, sáng tạo của nhà đầu tư. Cần quy định về quản trị công ty theo hướng linh hoạt, giảm thiểu những ràng buộc pháp lý trong tổ chức quản lý nội bộ đối với mô hình kinh doanh này.
Từ những bất cập và tồn tại của pháp luật Việt Nam khi quy định về loại hình công ty hợp danh, trên cơ sở các định hướng hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh nêu trên, đề án xin đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa luật pháp nước nhà về loại hình công ty hợp danh như sau:
2.1.1. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ về công ty hợp danh
Việc thống nhất pháp luật về công ty hợp danh không đồng nghĩa với việc pháp điển hóa tất cả các quy định pháp luật về công ty hợp danh vào trong một văn bản pháp luật. Việc thống nhất pháp luật theo nghĩa thống nhất về nội dung, thống nhất về chính sách pháp luật cũng như về tư duy pháp lý. Về phương diện lý luận, pháp luật nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng đòi hỏi sự thống nhất. Tính thống nhất của pháp luật về doanh nghiệp bao gồm cả nội dung và hình thức văn bản, thể hiện ở chỗ pháp luật về doanh nghiệp là một chỉnh thể, được cấu thành bởi các quy phạm, các chế định có nội dung tương thích, không mâu thuẫn, không chồng chéo lên nhau từ đó hình thành sự minh bạch của pháp luật. Cần có sự rà soát các quy định về công ty hợp danh trong những văn bản pháp luật như pháp luật về dân sự, về hoạt động thương mại, về tín dụng, bảo hiểm, thậm chí pháp luật về thuế, hải quan... Bên cạnh đó, xây dựng thống nhất hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công ty hợp danh: hoàn thiện chế định pháp luật về tài sản hợp đồng phá sản... tạo cơ sở pháp lý quan trọng để mô hình công ty hợp danh có thể thật sự được phát triển ở nước ta.
2.1.2. Về thành viên hợp danh
Việc Luật Doanh nghiệp năm 2020 không cho phép pháp nhân trở thành thành viên hợp danh đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của các thương nhân khi lựa chọn loại hình kinh doanh. Quyền tự do kinh doanh là một trong những quyền được Hiến pháp năm 2013 quy định. Hơn thế nữa, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận loại thương nhân là pháp nhân thì không có lý gì lại không cho phép pháp nhân được trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Trong thực tế, nhu cầu liên kết để tiến hành hoạt động kinh doanh không chỉ xuất hiện giữa các cá nhân có quan hệ quen biết và tin tưởng lẫn nhau. Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020 về hoạt động đầu tư dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, đây là một trong những hình thức đầu tư được các Luật gia trên thế giới quan niệm là công ty hợp danh. Chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Hơn nữa, pháp nhân có tài sản riêng và hoàn toàn có thể chịu trách nhiệm bằng toàn bộ số tài sản đó về các nghĩa vụ của công ty hợp danh.
Vì lẽ đó, pháp luật về công ty hợp danh cần quy định thành viên hợp danh của công ty có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.
Việc pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 180 Luật Doanh nghiệp năm 2020:
“Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại”. Đây là quy định không phù hợp với tính chất hợp danh và trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các thành viên hợp danh còn lại cũng như của bên thứ ba và sự an toàn của thị trường vấn đề này cần phải được quy định: Một chủ thể chỉ có thể là thành viên hợp danh của một công ty hợp danh; không được vừa làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh vừa làm chủ doanh nghiệp tư nhân.
2.1.3. Về thành viên góp vốn
Như đã phân tích ở chương 2, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định thành viên góp vốn là thành viên tham gia vào Hội đồng thành viên - cơ quan quản lý cao nhất trong công ty hợp danh. Nhưng mọi công việc quan trọng của công ty hợp danh đều được quyết định bởi các thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng đó, sự có mặt hay không có mặt của loại thành viên góp vốn cũng không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty. Điều này một phần xuất phát từ việc Luật Doanh nghiệp năm 2020 chưa phân loại rõ ràng hai hình thức công ty hợp danh, phần còn lại do pháp luật chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh dẫn đến tình trạng không quy định về quyền biểu quyết của thành viên góp vốn trong một số phạm vi hoạt động nhất định. Trên thực tế, thành viên góp vốn cũng có tầm quan trọng nhất định trong công ty hợp danh và những vấn đề quan trọng của công ty, sự tồn tại, phát triển hay sự giải thể của công ty cũng liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ. Do vậy, pháp luật cần quy định cho họ những quyền lợi nhất định trong việc tham gia biểu quyết quyết định một số vấn đề lớn của công ty, cũng như quy định cụ thể về việc thông qua với tỉ lệ thành viên góp vốn chấp thuận. Từ đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của thành viên góp vốn trong hoạt động kinh doanh của công ty, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia góp vốn để trở thành thành viên góp vốn của công ty hợp danh đồng thời đảm bảo quyền lợi cho loại thành viên góp vốn trong tương quan với các thành viên hợp danh.
2.1.4. Về ngành nghề kinh doanh dưới hình thức hợp danh
Pháp luật hiện hành cần có quy định về những ngành nghề bắt buộc kinh doanh dưới hình thức công ty hợp danh như kiểm toán, kế toán, thiết kế xây dựng, khám chữa bệnh và dịch vụ pháp lý. Bởi đây là những ngành nghề có tầm quan trọng ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống xã hội mà pháp luật rất không nên cho người kinh doanh được hưởng cơ chế chịu trách nhiệm hữu hạn. Những ngành nghề trên yêu cầu nhà đầu tư cần có trách nhiệm cao, mọi chủ quan tắc trách đều dẫn đến những hậu quả rất lớn mà khó có thể sửa chữa lại. Chính vì vậy, việc quy định bắt buộc phải thành lập dưới hình thức công ty hợp danh, có thể ít nhiều sẽ gây ra khó khăn cho những nhà đầu tư bởi trách nhiệm vô hạn nhưng bù lại, sẽ mang lại tinh thần trách nhiệm, ý thức về công việc cao hơn cho họ. So sánh giữa những giá trị đạt được và hạn chế của việc thành lập dưới hình thức công ty hợp danh đối với các ngành nghề trên, có thể nhận thấy, hiệu quả, khả năng mà công ty mang lại luôn cao hơn và đáp ứng tốt hơn yêu cầu từ phía xã hội. Trên thực tế, pháp luật ngày càng quan tâm đến vấn đề định hướng ngành nghề kinh doanh theo đặc thù của từng loại doanh nghiệp.
Mở rộng phạm vi nghiên cứu để tìm hiểu kinh nghiệm từ các quốc gia khác: “Một số loại dịch vụ (tư vấn pháp lý, khám, chữa bệnh, thiết kế kiến trúc) có ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng ngay khi sử dụng. Kinh nghiệm quốc tế, pháp luật quy định hai điều kiện cơ bản để kinh doanh các dịch vụ đó: (i) cá nhân cung ứng các dịch vụ đó phải có trình độ chuyên môn tương ứng và (ii) hình thức kinh doanh phải là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh. Pháp luật đòi hỏi trách nhiệm cá nhân rất cao đối với người cung ứng các dịch vụ nói trên, buộc họ phải có ý thức trách nhiệm và cả tính cẩn trọng cao nhất là việc đảm bảo chất lượng dịch vụ qua đó bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Kinh doanh các dịch vụ trên đòi hỏi người trực tiếp cung ứng phải chịu trách nhiệm vô hạn và do đó phải thành lập công ty hợp danh”. Thiết nghĩ, việc quy định cụ thể các ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh với từng loại hình kinh doanh hoàn toàn không làm hạn chế quyền tự do, sáng tạo trong kinh doanh. Bởi chỉ với mục đích định hướng các ngành nghề kinh doanh đi theo đúng trật tự, hoạt động an toàn, hiệu quả và phù hợp với thế mạnh của từng loại hình doanh nghiệp.
2.1.5. Về quản lý điều hành công ty
Bản chất của công ty hợp danh là một quan hệ hợp đồng theo đó, quyền và nghĩa vụ của các thành viên được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Việc quản lý, điều hành công ty hợp danh là một trong những nội dung cơ bản của hợp đồng này. Với nguyên tắc, hoạt động liên kết đầu tư giữa các thành viên hợp danh được tạo lập bởi niềm tin giữa họ, mỗi thành viên hợp danh đều là đại diện đương nhiên cho công ty và cho thành viên hợp danh khác trong các quan hệ pháp luật; đồng thời phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ tài sản của công ty. Nên thông thường pháp luật về công ty hợp danh của các nước không có sự can thiệp vào cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty hợp danh. Để đảm bảo quyền tự chủ, tự định đoạt của các thành viên hợp danh trong tổ chức quản lý công ty, pháp luật cần hạn chế các quy định có nội dung can thiệp vào hoạt động nội bộ của công ty. Công ty hợp danh là một quan hệ hợp đồng được xác lập giữa các thành viên nhằm mục tiêu tiến hành hoạt động đầu tư chung nhưng cơ chế quản lý nội bộ công ty lại tuân thủ các quy định của pháp luật mà không phải do thành viên công ty tự quyết định là điều không phù hợp. Tuy nhiên với cơ chế đại diện nhiều người, mà người quản lý trong công ty hợp danh là các thành viên hợp danh dẫn đến cơ chế đại diện trong công ty không rõ ràng cũng gây ra những khó khăn cho các thành viên hợp danh trong việc kiểm soát hoạt động của công ty.
Do vậy, về vấn đề quản lý điều hành công ty hợp danh, pháp luật về công ty hợp danh thay vì quy định công ty hợp danh gồm có những bộ phận nào, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận ra sao (bởi quy định này cho thấy công ty hợp danh không khác gì một công ty trách nhiệm hữu hạn), mà cần quy định những nội dung sau:
- Việc quản lý điều hành công ty hợp danh do các thành viên hợp danh quyết định trong hợp đồng hợp danh hoặc trong điều lệ công ty;
- Nhiệm vụ quyền hạn của người quản lý công ty hợp danh được quy định tại hợp đồng hợp danh hoặc điều lệ công ty hợp danh. Trường hợp hợp đồng hợp danh hoặc điều lệ không xác định phạm vi thẩm quyền của người quản lý thì người quản lý được thực hiện mọi hành vi vì mục tiêu hoạt động của công ty;
- Pháp luật về công ty hợp danh cần quy định cơ chế đảm bảo quyền lợi của thành viên hợp danh thông qua việc xác định hiệu lực của các giao dịch mà thành viên hợp danh thực hiện.
2.1.6. Tổ chức lại công ty hợp danh
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, pháp luật quy định các hình thức tổ chức lại doanh nghiệp gồm: chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Nhưng đối với công ty hợp danh, pháp luật hiện hành chỉ cho phép áp dụng hai hình thức tổ chức lại là hợp nhất và sáp nhập. Có lẽ các nhà làm luật cho rằng mô hình công ty hợp danh là mô hình quy mô nhỏ, không thích hợp để áp dụng các thủ tục tổ chức lại là chia và tách. Do đó, pháp luật doanh nghiệp về công ty hợp danh cần quy định bổ sung về các hình thức tổ chức lại như chia, tách, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, pháp luật hiện nay chưa quy định rõ về thủ tục hợp nhất, sáp nhập của công ty hợp danh và các hậu quả phát sinh từ việc hợp nhất, sáp nhập công ty dẫn đến phát sinh những vấn đề liên quan về tư cách thành viên trong công ty hợp danh hợp nhất, nhận sáp nhập. Vấn đề này có thể được quy định như sau:
- Doanh nghiệp được hình thành từ việc hợp nhất các công ty hợp danh là công ty hợp danh, thành viên hợp danh của công ty hợp danh mới chính là những thành viên hợp danh của các công ty bị hợp nhất;
- Doanh nghiệp được hình thành từ việc sáp nhập các công ty hợp danh là công ty hợp danh hữu hạn, trong đó, thành viên hợp danh của công ty hợp danh mới là thành viên hợp danh của công ty hợp danh nhận sáp nhập, các thành viên công ty hợp danh bị sáp nhập là thành viên góp vốn.
Ngoài ra, pháp luật về công ty hợp danh hiện hành không quy định về thủ tục chuyển đổi đối với công ty hợp danh mà chỉ quy định về thủ tục chuyển đổi công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Việc thiếu các quy định về chuyển đổi công ty hợp danh là sự thiếu sót lớn trong hệ thống pháp luật, ảnh hưởng đến sự phát triển của hình thức kinh doanh này trong thị trường. Để đảm bảo sự phát triển ổn định của công ty hợp danh trong thị trường cũng như sự phát triển của kinh tế - xã hội, đòi hỏi pháp luật về công ty hợp danh phải quy định về các trường hợp chuyển đổi công ty. Theo đó, pháp luật có thể quy định cụ thể về các trường hợp chuyển đổi, điều kiện chuyển đổi, thủ tục chuyển đổi và hậu quả của việc chuyển đổi. Những nội dung đó có thể được quy định như sau:
- Pháp luật về công ty hợp danh cần dự liệu các trường hợp chuyển đổi công ty hợp danh từ hợp danh thường sang hợp danh hữu hạn, bao gồm: Khi thành viên hợp danh chết, khi thành viên hợp danh mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, khi thành viên hợp danh rút vốn khỏi công ty... Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần dự liệu trường hợp chuyển đổi công ty hợp danh thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn;
- Pháp luật về công ty hợp danh cần xác định điều kiện của việc chuyển đổi, đó là được sự nhất trí của tất cả các thành viên hợp danh;
- Pháp luật về công ty hợp danh cần xác định hậu quả của việc chuyển đổi, đặc biệt là xác định trách nhiệm của thành viên hợp danh đối với các nghĩa vụ tài sản của công ty trước và sau khi chuyển đổi. Nội dung này của pháp luật là nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba;
- Pháp luật về tổ chức lại công ty hợp danh cần xác định thành viên hợp danh của công ty hợp danh sau chuyển đổi, nhằm tạo ra sự an toàn (mang tính tương đối) cho các thành viên hợp danh của các công ty bị tổ chức lại.
2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về công ty hợp danh
Hiệu quả của hoạt động thực thi pháp luật về công ty hợp danh ở nước ta hiện nay phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó, chủ yếu là trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của các chủ thể, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp luật. Học viên đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật như:
2.2.1. Đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
Thời gian qua công tác phổ biến giáo dục pháp luật đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Bên cạnh những việc đã làm được góp phần đua pháp luật đến với người dân, giúp người dân hiểu và làm theo pháp luật thì vẫn còn những điểm cần khắc phục để tăng cường hiệu quả công tác này trong thực tế. Tinh thần thượng tôn hiến pháp và pháp luật phải thấm nhuần trong cuộc sống vào mỗi công việc của người dân. Sau đây là một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật:
- Cần phải tiếp tục tác động đến ý thức và nâng cao nhận thức về vai trò vị trí công tác này cá thể hóa nhiệm vụ của từng cơ quan ban hành trong hệ thống chính trị.
- Đặc biệt, trong thời kỳ mới cần quan tâm tới việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giai đoạn mới nhằm đa dạng hình thức để công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trở nên cuốn hút và việc tổ chức sẽ hiệu quả và tiết kiệm hơn. Cá thể hóa nhiệm vụ của từng cơ quan ban hành trong hệ thống chính trị về công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
- Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo nhằm nhân rộng các mô hình hay, tìm ra được những giải pháp mang tính đột phá nhằm tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn, lĩnh vực, đối tượng đặc thù.
- Cải tiến nội dung phổ biến sao cho bám sát công tác xây dựng thi hành và bảo vệ pháp luật với nhu cầu xã hội, với từng nhóm đối tượng địa bàn, lĩnh vực, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật được đa dạng hóa sát với nội dung đối tượng, địa bàn gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hội đồng phối hợp với phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp.
- Đào tạo đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật được củng cố, kiện toàn đủ số lượng, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Các cấp, các ngành cần chủ động phối hợp, nâng cao trách nhiệm hơn nữa trong công tác tuyên truyền phổ biến. Đồng thời có kiểm tra việc thực hiện các đề án, chương trình đã đề ra, nhằm tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện.
- Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng đối với công tác phổ biến tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân.
2.2.2. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong hoạt động thực hiện pháp luật
- Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, cá thể hóa trách nhiệm của người trực tiếp hoạt động công vụ gắn liền với tiếp xúc và giải quyết công việc liên quan đến doanh nghiệp.
- Cải cách thể chế, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, nhằm tạo môi trường thông thoáng, minh bạch.
- Đồng thời nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức liên quan đến lĩnh vực quản lý doanh nghiệp nói chung và công ty hợp danh nói riêng. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các đề án, chương trình nhằm nâng cao chất lượng việc thực hiện.
2.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
- Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính, trong đó, tập trung cải cách trong lĩnh vực đầu tư, thuế và một số lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp nói chung cũng như công ty hợp danh nói riêng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế tạo môi trường kinh doanh thông thoáng bình đẳng góp phần giải phóng nguồn lực xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Tăng cường tổ chức hội thảo nhằm nghiên cứu, nhân rộng mô hình hay, cách làm mới trong thực hiện cải cách hành chính liên quan đến những thủ tục đăng ký thành lập, giải thể, phá sản và đăng ký thuế.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả, công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian, chi phí của doanh nghiệp cũng như chi phí quản lý từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Doanh nghiệp năm 2024
2. Bình luận các quy định về công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 2020
https://lsvn.vn/binh-luan-cac-quy-dinh-ve-cong-ty-hop-danh-trong-luat-doanh-nghiep-nam-20201632327822.html
3. Những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty luật hợp danh ở Việt Nam
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/nhung-yeu-cau-va-giai-phap-hoan-thien-phap-luat-ve-cong-ty-luat-hop-danh-o-viet-nam-69609.htm
4. Bức tranh về tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/buc-tranh-ve-tinh-hinh-dang-ky-doanh-nghiep-nam-2023-va-du-bao-xu-huong-doanh-nghiep-trong-nam-2024
[1] Tạp chí tài chính, Vai trò động lực của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế Việt Nam; xem tại: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/vai-tro-dong-luc-cua-kinh-te-tu-nhan-trong-phat-trien-kinh-te-vietnam135422.html?fbclid=IWAR3FylOCSWbcfdkAdQWX.po8UVEigpU2dZm04bOWOD919TOnmPjUH-Q81CAK truy cập ngày 29/05/2024
Ý kiến bạn đọc